Đề cương tuyên truyền kết quả kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV
Điện Biên TV - Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV diễn ra trong 16 ngày, kỳ họp chia thành hai đợt, kết hợp họp trực tuyến và tập trung. Kỳ họp tiếp tục thực hiện đổi mới, rút ngắn thời gian họp so với các kỳ họp cuối năm của Quốc hội nhưng bảo đảm chất lượng, hiệu quả và đúng quy định.
Đây là kỳ họp diễn ra trong bối cảnh dịch Covid -19 ở nước ta cơ bản được kiểm soát, các địa phương đang từng bước triển khai thích ứng an toàn, linh hoạt, có hiệu quả phòng, chống dịch Covid -19, tập trung khôi phục phát triển kinh tế - xã hội, tạo xung lực mới, khí thế mới cho việc thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Điện Biên TV đăng tải nội dung kết quả kỳ họp và định hướng công tác tuyên truyền do Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Văn phòng Quốc hội soạn thảo tới bạn đọc.
Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV |
Kỳ họp này, Quốc hội đã hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra và thành công tốt đẹp; Quốc hội đã biểu quyết và thông qua 02 luật, 12 nghị quyết; cho ý kiến về 05 dự án luật; tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn. Quốc hội đã nghe báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân gửi đến kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV; báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV; xem xét nhiều báo cáo quan trọng về công tác phòng, chống dịch Covid -19 và việc thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 của Quốc hội; tình hình thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm xã hội; việc quản lý, sử dụng Quỹ bảo hiểm y tế năm 2020 và việc thực hiện Nghị quyết số 68/2013/QH13 về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân trong 02 năm 2019-2020; công tác tư pháp, công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, thi hành án, phòng, chống tham nhũng năm 2021.
KẾT QUẢ CỦA KỲ HỌP
1. Công tác lập pháp (các luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua)
1.1. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều và Phụ lục-Danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia của Luật Thống kê được ban hànhnhằm đáp ứng yêu cầu kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng, cung cấp thông tin phục vụ Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương trong hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế, tháo gỡ được nhiều khó khăn, vướng mắc hiện nay, đáp ứng yêu cầu so sánh quốc tế trong các lĩnh vực. Luật sửa đổi, bổ sung02 điều có tính cấp thiết, rất căn bản, quan trọng của Luật Thống kê hiện hành (Điều 17 và Điều 48), trong đó quy định rõ hơn về việc nâng cao vai trò trách nhiệm xây dựng quy trình biên soạn tính toán chỉ tiêu GDP và GRDP của cơ quan thống kê Trung ương, thẩm quyền của Chính phủ, Quốc hội trong việc xem xét, quyết định việc đánh giá lại quy mô GDP;công khai, minh bạch phương pháp tính, nguồn số liệu, công bố thông tin thống kê; đồng thời, sửa đổi, bổ sung Phụ lục - Danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia của Luật Thống kê từ 186 chỉ tiêu thành 230 chỉ tiêu.
1.2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự được ban hành nhằm bảo đảm đúng lộ trình thực hiện cam kết của Việt Nam trong Hiệp định CPTPP và yêu cầu theo Nghị quyết số 72/2018/QH14 của Quốc hội; đáp ứngyêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc do ảnh hưởng củadịch COVID-19 nói riêng và phù hợp với tình hình thực tiễn trong các trường hợp thiên tai, dịch bệnh bất khả kháng nói chung.Luật sửa đổi, bổ sung 06 điều của Bộ luật Tố tụng hình sự và 01 điều của Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự. Theo đó, cho phép cơ quan có thẩm quyền có thể khởi tố vụ án hình sự về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp mà không cần phải có yêu cầu của người bị hại; bổ sung trách nhiệmtiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm cho Công an xã (như đối với Công an phường, thị trấn, Đồn Công an); bổ sung căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án "Vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh".
1.3. Các Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng, các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế được ban hành bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, tạo điều kiện để các địa phương này thu hút nguồn lực đầu tư, tăng tính "đột phá" về cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững, tạo sự lan tỏa vùng, miền, tạo tiền đề để áp dụng cho các địa phương khác. Trong đó, quy định thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp với từng địa phương trong việc quản lý tài chính - ngân sách nhà nước; phí tham quan di tích, thành lập Quỹ bảo tồn di sản Huế; phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai, quy hoạch, lâm nghiệp; giải quyết vấn đề thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với điều kiện và tình hình phát triển kinh tế - xã hội,...
1.4. Nghị quyết về tổ chức phiên tòa trực tuyến được ban hành để vừa đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch bệnh COVID -19, vừa bảo đảm thời hạn xét xử do luật định; phù hợp với quan điểm, chủ trương, định hướng của Đảng về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Tòa án nhân dân; là một bước cụ thể hóa việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác xét xử, hướng tới xây dựng Tòa án điện tử ở nước ta; phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế về tư pháp. Nghị quyết gồm 03 điều, trong đó quy định Tòa án nhân dân đượctổ chức phiên tòa trực tuyến để xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm các vụ án có tình tiết, tính chất đơn giản; tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án rõ ràng, trừ những vụ án có liên quan đến bí mật nhà nước, các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh. Để bảo vệ quyền con người của bị cáo, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Nghị quyết đã quy định những nguyên tắc chung về tổ chức phiên tòa trực tuyến bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật, an ninh, an toàn thông tin mạng, các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuậtvà sự tôn nghiêm của phiên tòa. Đồng thời, giao Tòa án nhân dân tối cao theo thẩm quyền ban hành hoặc chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành việc tổ chức phiên tòa trực tuyến.
2.Các dự án luật được Quốc hội cho ý kiến
2.1. Dự án Luật Cảnh sát cơ động được xây dựng để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tổ chức, hoạt động của lực lượng Cảnh sát cơ động cho phù hợp với tính chất đặc thù, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Quốc hội tập trung thảo luận về: vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc hoạt động cũng như việc sử dụng, trang bị vũ khí, phương tiện, công cụ hỗ trợ của Cảnh sát cơ động; hệ thống tổ chức; xây dựng lực lượng Cảnh sát cơ động; quyền huy động người, phương tiện, thiết bị của Cảnh sát cơ động; hợp tác quốc tế của Cảnh sát cơ động; phối hợp của Cảnh sát cơ động với cơ quan, tổ chức, lực lượng có liên quan; các hành vi bị nghiêm cấm; nghĩa vụ, trách nhiệm, chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát cơ động; việc tuyển chọn công dân vào Cảnh sát cơ động; trách nhiệm quản lý nhà nước đối với Cảnh sát cơ động,...
2.2. Dự án Luật Điện ảnh (sửa đổi) được xây dựng với mục đích cụ thể hóa nội dung về quyền con người, quyền công dân, quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật, quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa quy định trong Hiến pháp 2013; bổ sung điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi số trong hoạt động điện ảnh; tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thúc đẩy ngành điện ảnh phát triển vừa là ngành nghệ thuật sáng tạo, vừa là ngành kinh tế. Trong đó, những nội dung cơ bản đã được Quốc hội tập trung thảo luận là: việc sản xuất phim sử dụng ngân sách nhà nước; phổ biến phim trên không gian mạng; về quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh; những nội dung và hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động điện ảnh; Hội đồng thẩm định và phân loại phim, mức phân loại phim,...
2.3. Dự án Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) được xây dựng nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và tương thích với các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm; kiến tạo, phát triển thị trường bảo hiểm an toàn, minh bạch, bền vững, hiệu quả, tiệm cận với các thông lệ quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh và cùng với thị trường tiền tệ - tín dụng và thị trường chứng khoán trở thành các kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế. Theo đó, Quốc hội đã tập trung thảo luận những nội dung cơ bản về: đối tượng áp dụng; hợp đồng bảo hiểm; mô hình tổ chức, ứng dụng công nghệ thông tin, công khai thông tin, các biện pháp can thiệp, điều kiện thành lập, hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm; bảo hiểm vi mô; đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; quản lý tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm; cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm,...
2.4.Dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) được xây dựng nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành, đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.Với mục tiêu đó,Quốc hội đã tập trung cho ý kiến để hoàn thiện hệ thống danh hiệu thi đua; các hình thức khen thưởng; chế định về thẩm quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; cải cách thủ tục hành chính trong thi đua, khen thưởng,…
2.5. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ được xây dựng nhằm thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ, khắc phục những bất cập của Luật hiện hành; tiếp tục nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVFTA, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với các luật có liên quan đã được Quốc hội ban hành thời gian qua. Quốc hội đã tập trung thảo luận về: quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước; xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, các đại biểu Quốc hội cũng đã tham gia góp ý nhiều vấn đề cụ thể về: sở hữu công nghiệp; quyền tác giả, quyền liên quan; giống cây trồng; xác lập, thực thi và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên môi trường số, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng cơ sở dữ liệu về sở hữu trí tuệ,...
3. Xem xét các vấn đề kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước và quyết định các vấn đề quan trọng
Sau khi xem xét các báo cáo về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2021, dự kiến kế hoạch năm 2022, Quốc hội thống nhất cho rằng, năm 2021 nước ta đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt thiên tai lũ lụt và sự bùng phát mạnh mẽ của dịch COVID-19 lần thứ tư đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước. Song với sự vào cuộc kịp thời của cả hệ thống chính trị, sự cố gắng, chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp Nhân dân đã ủng hộ, chấp hành nghiêm các chủ trương, chính sách, khắc phục khó khăn, nỗ lực vượt qua thách thức, chủ động, linh hoạt, vừa tập trung phòng, chống dịch bệnh, vừa phục hồi, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu đạt ở mức cao nhất các chỉ tiêu chủ yếu của năm 2021.Quốc hội đã biểu quyết thông qua các nghị quyết sau:
3.1. Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022: Quốc hội đã quyết định mục tiêu tổng quát, 15 chỉ tiêu chủ yếu và 12 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, gồm: Tập trung thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật, tập trung tháo gỡ khó khăn, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Tăng cường chất lượng, hiệu quả cơ cấu lại nền kinh tế; phát triển kinh tế số, xã hội số. Đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực gắn với đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Thúc đẩy phát triển liên kết vùng, khu kinh tế và phát triển đô thị, kinh tế đô thị, đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch. Gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội; phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam; chú trọng thực hiện chính sách đối với người có công, với các đối tượng bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao năng lực hệ thống y tế. Quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển; đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính đi đôi với tạo dựng môi trường đổi mới sáng tạo. Củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
3.2.Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2022:Quốc hội quyết định tổng số thu ngân sách nhà nước là 1.411.700 tỷ đồng; tổng số chi ngân sách nhà nước là 1.784.600 tỷ đồng; mức bội chi ngân sách nhà nước là 372.900 tỷ đồng (tương đương 3,7% GDP); tổng mức vay của ngân sách nhà nước là 572.686 tỷ đồng. Lùi thời điểm thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Ban chấp hành Trung ương; ưu tiên điều chỉnh lương hưu cho người nghỉ hưu trước năm 1995.Tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định về tạo nguồn cải cách tiền lương nhằm thực hiện cải cách chính sách tiền lương vào thời điểm phù hợp. Đồng thời, giao Chính phủ tăng cường chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, công tác phòng, chống dịch, bố trí đủ nguồn lực thực hiện. Khẩn trương xây dựng phương án bố trí nguồn lực để thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất.
3.3.Nghị quyết về phân bổ ngân sách trung ương năm 2022:Quốc hội đã quyết định tổng số thu ngân sách trung ương là 739.132 tỷ đồng; tổng số thu ngân sách địa phương là 672.568 tỷ đồng; tổng số chi ngân sách trung ương là 1.087.032 tỷ đồng, trong đó dự toán 359.982 tỷ đồng để bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương. Tại Nghị quyết này, Quốc hội cũng đã quyết định tỷ lệ điều tiết và số bổ sung cân đối cho ngân sách địa phương được áp dụng riêng cho năm 2022; căn cứ tình hình thực tế, năm 2023 sẽ quy định lại cho phù hợp.
3.4. Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, trong đó xác định rõ quan điểm cơ cấu lại nền kinh tế trên cơ sở kế thừa và phát triển; lấy hoàn thiện thể chế, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo làm tiền đề, lấy cơ cấu lại không gian kinh tế, phát triển đô thị và kinh tế đô thị, thúc đẩy liên kết vùng, liên kết đô thị- nông thôn và vai trò dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn làm nhiệm vụ trọng tâm; huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển; bảo đảm hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ và phục hồi môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển rừng, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh. Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 phải gắn với Chương trình tổng thể phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, thực hiệnthực chất, hiệu quả hơn, củng cố nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn tài chính và an toàn tiền tệ quốc gia.
Quốc hội quyết định một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2025 cần đạt được và đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trong việc cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, đồng thời yêu cầu Chính phủ xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, hoàn thành trước tháng 4/2022, báo cáo Quốc hội kết quả thực hiện Nghị quyết này hằng năm; giữa nhiệm kỳ và cả nhiệm kỳ.
3.5. Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết về quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2021-2025. Quốc hội nhấn mạnh quy hoạch sử dụng đất không chỉ nhằm tạo nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại mà phải kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị để phát triển đất nước. Bảo đảm chỉ tiêu đất trồng lúa phù hợp với Kết luận số 81-KL/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh lương thực quốc gia đến năm 2030; tuy nhiên cũng cho phép linh hoạt sử dụng tối đa 300 nghìn ha đất trồng lúa chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhưng phải bảo đảm không làm thay đổi tính chất, điều kiện sử dụng đất trồng lúa, có thể chuyển đổi trở lại trồng lúa khi cần thiết; hạn chế việc chuyển đổi đất trồng lúa, nhất là đất chuyên trồng lúa nước sang đất phi nông nghiệp, đặc biệt là đất khu công nghiệp,...
Quốc hội cũng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp quan trọng về chính sách, khoa học và công nghệ, về nguồn lực, ứng phó với biển đổi khí hậu, phục hồi quỹ đất bị suy thoái, kiểm tra, giám sát, về tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức để thực hiện hiệu quả hơn Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, Kế hoạch sử dụng đất 05 năm 2021-2025.
3.6. Quốc hội đã xem xét, thông qua Nghị quyết kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, trong đó đề nghị các cơ quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng pháp luật, gắn với việc tổ chức thực hiện Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị về Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Đồng thời, yêu cầu Chính phủ hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về bảo hiểm y tế, khẩn trương trình Quốc hội dự án Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi) đồng bộ với việc sửa đổi Luật Khám bệnh, chữa bệnh; giao chỉ tiêu tham gia bảo hiểm y tế cho các địa phương giai đoạn 2021-2025. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng yêu cầu Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục triển khai có hiệu qủa nhằm đạt được các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại Nghị quyết số 96/2019/QH14 của Quốc hội; đẩy nhanh hơn nữa việc giải quyết các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận; xử lý dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp tồn đọng, kéo dài,...
(Còn nữa...)
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG - VĂN PHÒNG QUỐC HỘI