Đề cương tuyên truyền dự án Luật Cảnh sát cơ động
Điện Biên TV - Dự án Luật Cảnh sát cơ động được xây dựng với bố cục gồm 5 chương với 33 điều, quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Cảnh sát cơ động; điều kiện bảo đảm và chế độ, chính sách đối với Cảnh sát cơ động; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Dienbientv.vn đăng tải toàn bộ nội dung tóm tắt về dự án Luật đã được chỉnh lý, hoàn thiện:
Vấn đề 1. Sự cần thiết ban hành Luật Cảnh sát cơ động
Việc xây dựng dự án Luật Cảnh sát cơ động xuất phát từ các cơ sở sau đây:
Thứ nhất, về cơ sở chính trị: Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh đối với lực lượng Công an nhân dân nói chung trong đó có Cảnh sát cơ động. Đặc biệt tại Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam phần về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã xác định: “... Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang từng bước được trang bị hiện đại, trước hết là cho lực lượng Hải quân, Phòng không, không quân, lực lượng An ninh, Tình báo, Cảnh sát cơ động ”; Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII cũng tiếp tục xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa các lực lượng hải quân, phòng không - không quân, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ thuật, cảnh sát biển, tình báo, cơ yếu, an ninh, cảnh sát cơ động... ”; Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia xác định ưu tiên kinh phí, đầu tư trang bị phương tiện đảm bảo cho lực lượng Cảnh sát cơ động tiến thẳng lên hiện đại. Ngày 31/3/2021, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 31/QĐ-TTg phê duyệt Đề án hiện đại hóa lực lượng Cảnh sát cơ động đến năm 2025, tầm nhìn năm 2030. Do vậy, việc xây dựng Luật Cảnh sát cơ động là một bước quan trọng để thể chế hóa các chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước nhằm xây dựng lực lượng Cảnh sát cơ động cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; là lực lượng nòng cốt thực hiện biện pháp vũ trang bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Thứ hai, về cơ sở pháp lý: Tại khoản 2, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Pháp lệnh Cảnh sát cơ động năm 2013 đang quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát cơ động được thực hiện nhiều hoạt động liên quan tới hạn chế quyền con người, quyền công dân. Theo đó, Cảnh sát cơ động là lực lượng nòng cốt áp dụng biện pháp vũ trang (sử dụng sức mạnh thể chất và sức mạnh của vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại được trang bị) để đấu tranh chống khủng bố, trấn áp, giải quyết các vụ bạo loạn, biểu tình, tụ tập đông người gây rối an ninh, trật tự... trực tiếp tác động đến sức khỏe, tính mạng của các đối tượng phạm tội. Bên cạnh đó, để thực hiện nhiệm vụ trong những trường hợp cấp bách, Cảnh sát cơ động được quyền huy động người, phương tiện, thiết bị dân sự, yêu cầu các cơ quan cung cấp sơ đồ, thiết kế, bản vẽ công trình và được vào chỗ ở của cá nhân, trụ sở cơ quan, tổ chức... Vì vậy, để đảm bảo tuân thủ quy định của Hiến pháp năm 2013, các quy định trên cần thiết phải được thể hiện ở văn bản luật.
Thứ ba, về cơ sở thực tiễn: Cảnh sát cơ động là lực lượng có tính chất đặc thù so với các lực lượng khác trong Công an nhân dân, với chức năng nòng cốt áp dụng biện pháp vũ trang bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, Cảnh sát cơ động tác chiến theo đội hình, cơ động nhanh, đấu tranh vũ trang trực diện, xử lý những vụ việc, tình huống phức tạp mà nếu chỉ sử dụng biện pháp, lực lượng khác trong Công an nhân dân thì không giải quyết được. Đối tượng đấu tranh của Cảnh sát cơ động đa dạng, phức tạp, số lượng đông từ các băng, ổ nhóm, tội phạm hình sự, ma túy nguy hiểm có sử dụng các loại vũ khí nóng, đến các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, biểu tình, bạo loạn. Hoạt động vũ trang bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo chức năng, nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm. Cảnh sát cơ động ở Trung ương và địa phương được tổ chức theo mô hình đơn vị vũ trang chiến đấu tập trung, quân số đông, được trang bị nhiều loại vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện, thiết bị kỹ thuật đặc chủng, hiện đại như: Súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên, súng trung liên, súng đại liên, súng chống tăng, B40, B41, xe thiết gIáp, chống đạn; tàu thủy, máy bay trực thăng... Bên cạnh đó, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, nhất là xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố quốc tế, biểu tình, bạo loạn; các mối đe dọa an ninh truyền thống, phi truyền thống, tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia... tác động ảnh hưởng trực tiếp an ninh, trật tự tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Các thế lực thù địch từ bên ngoài tiếp tục câu kết các đối tượng phản động, cơ hội chính trị, cực đoan ở trong nước triệt để lợi dụng các vấn đề liên quan đến tranh chấp biển, đảo, khiếu kiện, đình công, lãn công và các vấn đề xã hội làm nảy sinh dư luận và bức xúc trong Nhân dân để hoạt động chống phá Việt Nam. Các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm ma túy, hình sự, tội phạm sử dụng công nghệ cao; các vấn đề xã hội phát sinh do sự bùng phát và hậu quả của dịch bệnh Covid-19... vẫn là thách thức lớn cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm bảo đảm ANTT của Cảnh sát cơ động. Với tính chất đặc thù và yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đòi hỏi phải xây dựng các quy định ở tầm luật để điều chỉnh về hoạt động, tổ chức, trang bị, chế độ, chính sách của Cảnh sát cơ động.
Mặt khác, qua hơn 08 năm triển khai thi hành Pháp lệnh Cảnh sát cơ động đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được khắc phục và nâng lên ở tầm quy định của Luật như về nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền điều động, quan hệ phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động.
Từ những cơ sở chính trị, pháp luật và thực tiễn nêu trên cho thấy việc xây dựng dự án Luật Cảnh sát cơ động là cần thiết. Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV vừa qua, các vị đại biểu Quốc hội cũng nhất trí cao với sự cần thiết phải xây dựng và ban hành luật về Cảnh sát cơ động để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho tổ chức và hoạt động của lực lượng này nhằm bảo vệ an ninh, trật tự, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Vấn đề 2. Dự thảo Luật không quy định cụ thể phạm vi, không gian hoạt động của Cảnh sát cơ động xuất phát từ những lý đo sau đây:
Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm trên phạm vi toàn quốc. Do vậy, Cảnh sát cơ động là một lực lượng thuộc Công an nhân dân nên phạm vi, không gian hoạt động của Cảnh sát cơ động được thực hiện theo quy định của Luật Công an nhân dân năm 2018.
Trên thực tế, Cảnh sát cơ động căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và điều động của cấp có thẩm quyền để triển khai lực lượng, biện pháp kịp thời xử lý những vụ việc, tình huống phức tạp về an ninh, trật tự có thể xảy ra ở bất kỳ địa bàn nào trong phạm vi toàn quốc. Quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vụ việc liên quan đến an ninh quốc gia (như giải quyết các vụ việc tập trung đông người, gây rối an ninh, trật tự, biểu tình, bạo loạn...), hay đấu tranh triệt phá các tụ điểm, các băng ổ nhóm tội phạm để bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của Cảnh sát cơ động không chỉ xảy ra ở các tỉnh, thành phố lớn, trọng điểm, mà còn xảy ra ở các tỉnh khu vực miền núi, biên giới (như Mường Nhé, Điện Biên, Mường Tè, Lai Châu, Lóng Luông, Vân Hồ, Sơn La ở khu vực Tây Bắc và các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk khu vực Tây Nguyên). Đặc biệt có những vụ việc xảy ra và lan rộng trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố (như vụ việc giàn khoan HD 981 năm 2014, ô nhiễm môi trường biển năm 2016) đòi hỏi Cảnh sát cơ động phải kịp thời nhanh chóng triển khai lực lượng để giải quyết vụ việc.
Do đó, nếu quy định phạm vi hoạt động của Cảnh sát cơ động theo không gian, địa giới hành chính sẽ không phù hợp với tính chất cơ động, tính linh hoạt trong điều động sử dụng Cảnh sát cơ động giải quyết các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự. Hiện nay, một số lực lượng đặc thù có quy định về phạm vi, địa bàn hoạt động cụ thể như Cảnh sát biển là lực lượng nòng cốt thực thi pháp luật trên biển; Bộ đội Biên phòng là lực lượng chủ trì trong duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu. Tại những địa bàn này, khi xảy ra các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự mà các lực lượng tại chỗ không giải quyết được thì theo điều động của cấp có thẩm quyển, Cảnh sát cơ động sẽ tham gia phối hợp giải quyết theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao. Thực tế hoạt động của Cảnh sát cơ động trong thời gian qua cho thấy không có sự chồng lấn về nhiệm vụ và địa bàn hoạt động với các lực lượng khác.
Do vậy, để đảm bảo tính linh hoạt, chủ động trong việc điều động, sử dụng CSCĐ giải quyết các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội tại dự thảo Luật không quy định về phạm vi hoạt động cụ thể của Cảnh sát cơ động là phù hợp.
Bên cạnh đó, để tránh chồng chéo trong thực thi nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động với các lực lượng khác, dự thảo Luật cũng đã có quy định về việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động với các cơ quan, tổ chức, lực lượng chức năng có liên quan, trong đó quy định rõ nguyên tắc phối hợp, nội dung phối hợp và cơ chế chỉ huy Cảnh sát cơ động trong phối hợp giải quyết các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự. Đồng thời, dự thảo Luật giao Chính phủ quy định cụ thể việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động.
Vấn đề 3. Về nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động (Điều 9)
- Tại dự thảo Luật quy định Cảnh sát cơ động có nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát đảm bảo an ninh, trật tự xuất phát từ những lý do sau:
Quy định về hoạt động tuần tra, kiểm soát của Cảnh sát cơ động tại dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở kế thừa quy định tại Pháp lệnh Cảnh sát cơ động, theo đó tại khoản 3, Điều 7 của Pháp lệnh quy định nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động “Tổ chức tuần tra, kiểm soát, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội ” và hiện nay hoạt động tuần tra, kiểm soát của Cảnh sát cơ động được Bộ trưởng Bộ Công an quy định cụ thể tại Thông tư số 58/2015/TT-BCA.
Việc thực hiện nhiệm vụ vũ trang tuần tra, kiểm soát của Cảnh sát cơ động là nhằm mục đích phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là các đối tượng có hành vi cản trở, chống người thi hành công vụ. Quá trình tuần tra, kiểm soát, Cảnh sát cơ động sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện, thiết bị kỹ thuật và động vật nghiệp vụ theo kế hoạch, phương án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; hình thức tuần tra công khai hoặc kết hợp với hóa trang, trong đó chủ yếu là thục hiện nhiệm vụ tuần tra độc lập. Từ thực tiễn trong những năm qua, công tác tuần tra, kiểm soát của Cảnh sát cơ động đã phát huy cao hiệu quả trong bảo đảm an ninh, trật tự tại các địa bàn trọng điểm trên cả nước, kịp thời phát hiện, khống chế, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần răn đe, thị uy các đối tượng phạm tội.
- Tại dự thảo Luật quy định Cảnh sát cơ động có nhiệm vụ “chủ trì, phối hợp huấn luyện công tác phòng, chống khủng bố cho lực hượng chuyên trách và lực lượng được huy động tham gia chống khủng bố” xuất phát từ những lý do sau:
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 40 của Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013, Bộ Công an được giao chủ trì “tổ chúc thực hiện quy định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác phòng, chống khủng bố”. Căn cứ quy định của Luật Phòng, chống khủng bố, Bộ trưởng Bộ Công an đã phân công nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động có nhiệm vụ trực tiếp tổ chức tập huấn, huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ chống khủng bố cho các cơ quan, đơn vị trong và ngoài ngành Công an tham gia phòng, chống khủng bố. Trong mô hình tổ chức của Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động có các đơn vị Cảnh sát Đặc nhiệm làm nhiệm vụ chuyên trách chống khủng bố. Đồng thời, ngày 18/10/2021, Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành Quyết định thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Trung tâm Huấn luyện quốc gia về phòng, chống khủng bố thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động. Do vậy, tại dự thảo Luật quy định Cảnh sát cơ động có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp huấn luyện công tác phòng, chống khủng bố cho lực lượng chuyên trách và lực lượng được huy động tham gia chống khủng bố là phù hợp với quy định của Luật Phòng, chống khủng bố và thực tế phân công nhiệm vụ của Bộ Công an.
Vấn đề 4. Về quyền hạn của Cảnh sát cơ động (Điều 10)
- Tại dự thảo Luật quy định Cảnh sát cơ động có thẩm quyền “Ngăn chặn, vô hiệu hóa tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ trực tiếp tấn công, đe dọa tấn công hoặc xâm phạm mục tiêu bảo vệ của Cảnh sát cơ động trong phạm vi khu vực cấm bay, khu vực hạn chế bay theo quy định của Thủ tướng Chính phủ ” xuất phát bởi những lý do sau đây:
Cảnh sát cơ động ở Trung ương và địa phương được giao nhiệm vụ vũ trang canh gác bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu quan trọng về chính trị, kinh tế, ngoại giao, khoa học - kỹ thuật, văn hóa theo danh mục quy định tại Nghị định số 37/2009/NĐ-CP ngày 23/4/2009 và Nghị định số 39/2021-NĐ-CP ngày 30/3/2021 của Chính phủ sửa đổi bổ sung Nghị định 37/2009/NĐ-CP; bảo vệ các hội nghị, sự kiện quan trọng. Mặc dù, tại Nghị định số 36/2008/NĐ-CP ngày 28/3/2008 của Chính phủ về quản lý tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ; trong đó việc quản lý điều hành, giám sát hoạt động bay đang được giao cho Bộ Quốc phòng thống nhất quản lý nhưng chưa quy định các hành vi vi phạm và các biện pháp xử ly đối với tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Quyết định số 18/2020/QĐ-TTg ngày 10/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ quy định về thiết lập khu vực cấm bay, khu vực hạn chế bay đối với tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ đã xác định khoảng cách từ tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ hoạt động đến ranh giới khu vực bảo vệ mục tiêu của Bộ Công an theo chiều ngang không nhỏ hơn 500m ở mọi độ cao. Đồng thời, Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ cũng không có quy định về việc nổ súng vào các loại phương tiện này.
Trong thực tế, hiện nay các loại phương tiện bay siêu nhẹ được sử dụng rất rộng rãi trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, tiềm ấn nguy cơ đe đọa gây mất an toàn các mục tiêu bảo vệ. Do vậy, để đảm bảo cơ sở pháp lý cho Cảnh sát cơ động chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ trong trường hợp các phương tiện này trực tiếp tấn công, xâm phạm hoặc đe dọa tấn công hoặc xâm phạm mục tiêu bảo vệ của Cảnh sát cơ động là phù hợp. Đồng thời, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã bổ sung, chỉnh lý nhằm làm rõ các loại phương tiện bay và phạm vi khu vực Cảnh sát cơ động được quyền ngăn chặn, vô hiệu hóa đảm bảo phù hợp với quy định tại Quyết định 18/2020/QĐ-TTg ngày 10/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thiết lập khu vực cấm bay, khu vực hạn chế bay đối với tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ.
- Tại dự thảo Luật quy định Cảnh sát cơ động có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp sơ đồ, thiết kế của công trình, trụ sở, nhà ở, phương tiện, trừ công trình quốc phòng, khu quân sự, phương tiện thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng; được vào trụ sở cơ quan, tổ chức, chỗ ở của cá nhân để giải cứu con tin, trấn áp khủng bố xuất phát từ những lý do sau đây:
Trên cơ sở kế thừa quy định tại Pháp lệnh Cảnh sát cơ động, theo đó tại khoản 13 Điều 7 về nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát cơ động quy định Cảnh sát cơ động “Được quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp sơ đồ, thiết kế, bản vẽ công trình và được vào nơi ở của cá nhân, trụ sở cơ quan, tổ chức để giải cứu con tin, trấn áp hành vi khủng bố và tội phạm có sử dụng vũ khí. Việc vào trụ sở cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế và chỗ ở của thành viên các cơ quan này tại Việt Nam phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên ”, tại dự thảo Luật quy định Cảnh sát cơ động có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp sơ đồ, thiết kế của công trình, trụ sở, nhà ở, phương tiện, trừ công trình quốc phòng, khu quân sự, phương tiện thuộc phạm vị quản lý của Bộ Quốc phòng; được vào trụ sở cơ quan, tổ chức, chỗ ở của cá nhân chỉ trong trường hợp để giải cứu con tin, trấn áp khủng bố. Quy định về quyền hạn này là phù hợp với quy định về nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động. Theo đó, một trong những nhiệm vụ chính của Cảnh sát cơ động là chống khủng bố, để đáp ứng yêu cầu tác chiến khi có tình huống xảy ra tại các trụ sở cơ quan, tổ chức, chỗ ở của cá nhân thì Cảnh sát cơ động cần được cung cấp sơ đồ, thiết kế của công trình, trụ sở, nhà ở, phương tiện để xây dựng phương án chống khủng bố. Đồng thời, được vào trụ sở cơ quan, tổ chức, chỗ ở của cá nhân để thực hiện biện pháp chống khủng bố, giải cứu con tin. Tuy nhiên, dự thảo Luật đã thiết kế 01 Điều quy định chặt chẽ việc vào trụ sở cơ quan, tổ chức, chỗ ở của cá nhân phải tuân thủ theo quy định của Luật Phòng chống khủng bố và các Điều ước quốc tế có liên quan.
Vấn đề 5. Về huy động người, phương tiện, thiết bị dân sự (Điều 16)
- Tại dự thảo Luật quy định Cảnh sát cơ động được quyền huy động người, phương tiện, thiết bị dân sự trong trường hợp cấp bách để thực hiện nhiệm vụ xuất phát từ những lý do sau đây:
Tại dự thảo Luật đã quy định chặt chẽ thẩm quyền huy động của Cảnh sát cơ động chỉ trong trường hợp cấp bách khi thực hiện các nhiệm vụ chính và do Cảnh sát cơ động chủ trì như chống khủng bố, giải cứu con tin, chống biểu tình, bạo loạn, bảo vệ mục tiêu, tuần tra, kiểm soát nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội hoặc để ngăn chặn hậu quả thiệt hại cho xã hội đang xảy ra hoặc có thể xảy ra. Quy định này cũng phù hợp với quy định về thẩm quyền huy động của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân được quy định tại khoản 16 Điều 16 Luật Công an nhân dân “Huy động, trưng dụng theo quy định của pháp luật phương tiện thông tin, phương tiện giao thông, phương tiện khác và người đang sử dụng, điều khiển phương tiện đó trong trường hợp cấp bách để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội hoặc để ngăn chặn hậu quả thiệt hại cho xã hội đang xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra”. Đồng thời, tại luật về một số lực lượng đã được Quốc hội thông qua trong thời gian gần đây cũng có chế định quy định về việc huy động như: Luật Cảnh vệ năm 2017, Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018, Luật Biên phòng Việt Nam năm 2020.
Do vậy, dự thảo Luật quy định về thẩm quyền huy động người, phương tiện, thiết bị dân sự của Cảnh sát cơ động đảm bảo tính chặt chẽ, thống nhất của hệ thống pháp luật và các quy định này là hết sức cần thiết để đảm bảo hành lang pháp lý vững chắc cho Cảnh sát cơ động trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Vấn đề 6. Về phối hợp thực hiện nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động (Điều 21)
- Tại dự thảo Luật quy định nguyên tắc phối hợp, nội dụng phối hợp, cơ chế Chỉ huy Cảnh sát cơ động trong thực hiện nhiệm vụ và giao cho Chính phủ quy định cụ thể việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động xuất phát từ những lý do sau đây:
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thời gian qua, đặc biệt là trong giải quyết các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, Công an nhân dân nói chung, Cảnh sát cơ động nói riêng phải phối hợp với nhiều lực lượng, cơ quan, ban ngành trên cơ sở thực hiện theo phương châm “4 tại chỗ". Để phân định rõ phạm vi nhiệm vụ cũng như vai trò của từng cơ quan khi phối hợp với Cảnh sát cơ động thực hiện nhiệm vụ, dự thảo Luật đã quy định cụ thể về nguyên tắc phối hợp phải dựa trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, lực lượng chức năng thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương theo quy định của pháp luật. Đồng thời, bảo đảm sự chủ trì, điều hành tập trung, thống nhất trong công tác chỉ đạo, chỉ huy thực hiện nhiệm vụ có liên quan. Mặt khác, dự thảo Luật cũng đã quy định cụ thể cơ chế chỉ huy của Cảnh sát cơ động, đây là những khó khăn, vướng mặc của Cảnh sát cơ động trong thực hiện nhiệm vụ thời gian qua.
Việc phân định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, lực lượng không chỉ căn cứ vào quy định của Luật này mà còn theo quy định của pháp luật có liên quan. Do vậy, để đảm bảo tính linh hoạt, chủ động về hình thức phối hợp, dự thảo Luật đã giao cho Chính phủ quy định cụ thể việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động.
Vấn đề 7. Về trang bị của Cảnh sát cơ động (Điều 23)
Dự thảo Luật quy định Cảnh sát cơ động được trang bị vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, tàu bay, tàu thuyền, phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao xuất phát từ những lý do sau:
Tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII, XIII của Đảng phần về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã xác định, Cảnh sát cơ động là một trong các lực lượng thuộc Công an nhân dân được ưu tiên đầu tư tiến thẳng lên hiện đại. Do đó quy định tại dự thảo Luật về việc trang bị tàu bay, tàu thuyền cho Cảnh sát cơ động là cụ thể hóa chủ trương nêu trên của Đảng.
Việc trang bị tàu bay, tàu thuyền cho Cảnh sát cơ động đã được quy định tại Điều 13 Pháp lệnh Cảnh sát cơ động và Điều 9 Nghị định số 77/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Cảnh sát cơ động, theo đó Cảnh sát cơ động được trang bị phương tiện cơ giới đường không gồm: Tàu bay trực thăng chuyên dụng, tàu bay không người lái, tàu lượn, khinh khí cầu; phương tiện cơ giới đường thủy gồm: tàu thủy phục vụ tuần tra, tác chiến, cứu hộ, cứu nạn.
Trên cơ sở đó, hiện nay, Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy Trung đoàn Không quân Công an nhân dân thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động và Bộ Công an đã tổ chức lễ ra mắt đơn vị này vào tháng 10/2021.
Việc trang bị máy bay, tàu thuyền cho Cảnh sát cơ động nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Theo đó, Cảnh sát cơ động sử dụng tàu bay, tàu thủy để thực hiện nhiệm vụ tuần tra, thị sát, cơ động chiến đấu, vận chuyển cán bộ, chiến sỹ, vũ khí, trang bị, lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm trong tình huống đột xuất ở các địa hình mà các phương tiện khác không thể tiếp cận được, như tại địa hình khó khăn, hiểm trở, thiên tai, bão lũ giao thông bị chia cắt...
Mặt khác, trước tình hình các tổ chức khủng bố, tội phạm trên thế giới ngày càng có nhiều phương thức, thủ đoạn mới, sử dụng, trang bị thiết bị hiện đại, đòi hỏi lực lượng thực thị pháp luật, trong đó Cảnh sát cơ động phái được trang bị hiện đại để tác chiến kịp thời. Việc đầu tư trang bị các loại phương tiện này cho lực lượng Cảnh sát cơ động đã được Đảng, Nhà nước quan tâm và có chủ trương từ nhiều năm trước nhằm nâng cao năng lực, khả năng chiến đấu của lực lượng Công an nhân dân nói chung, lực lượng Cảnh sát cơ động nói riêng nhằm sẵn sáng ứng phó kịp thời với các mối đe dọa an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống trước bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Thực tiễn hiện nay, lực lượng Cảnh sát tại nhiều nước trên thế giới đã được trang bị máy bay trực thăng để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ rất hiệu quả.
Do vậy, quy định tại dự thảo Luật về việc trang bị tàu bay, tàu thuyền cho Cảnh sát cơ động trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh (không phải chính sách mới trong Luật này) và tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng tại Nghị quyết đại hội lần thứ 13 về ưu tiên hiện đại hóa lực lượng Cảnh sát cơ động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
DIENBIENTV.VN