Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giảm sát của Đảng trong tình hình mới

Thứ Ba, 08/06/2021, 15:41 [GMT+7]

Điện Biên TV – Ngày 7/5/2021, Tỉnh ủy Điện Biên ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong tỉnh hình mới. Dienbientv.vn trân trọng giới thiệu toàn văn Nghị quyết

NGHỊ QUYẾT
CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH
về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng trong tình hình mới

-----

Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện khá toàn diện và đạt được nhiều kết quả tích cực. Việc xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa, hằng năm của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp có trọng tâm, trọng điểm, bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng đảng của Đảng bộ tỉnh theo đúng phương châm “Giám sát phải mở rộng và kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm”. Các cuộc kiểm tra, giám sát tăng về số lượng, chất lượng được nâng lên.

Trong nhiệm kỳ, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã kiểm tra 850 tổ chức đảng và 1.252 đảng viên; giám sát chuyên đề 305 tổ chức đảng và 686 đảng viên. Ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 20 tổ chức đảng và 92 đảng viên; giám sát chuyên đề 149 tổ chức đảng và 220 đảng viên; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát 532 tổ chức đảng...

Kết quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng đã góp phần quan trọng vào việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến, tự chuyển hóa" trong nội bộ và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; giữ gìn đoàn kết, thống nhất, trong sạch của Đảng; giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, góp phần quan trọng vào kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII.

Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Việc nắm tình hình, phát hiện kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm còn ít; chất lượng, hiệu quả công tác giám sát có mặt còn hạn chế. Một số cấp ủy, ủy ban kiểm tra chưa thực sự quan tâm kiểm tra, giám sát việc khắc phục, sửa chữa vi phạm, khuyết điểm sau kiểm tra, giám sát nên còn tổ chức đảng, đảng viên thực hiện chưa nghiêm, triệt để; thực hiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy, cơ quan, đơn vị có liên quan trong công tác kiểm tra, giám sát có thời điểm chưa thường xuyên.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là do: Một số cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là cấp cơ sở chưa quan tâm đúng mức trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Việc nghiên cứu, quán triệt, vận dụng các quy định, hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát ở một số cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra còn hạn chế. Công tác tham mưu của ủy ban kiểm tra một số đơn vị, địa phương chưa thật sự chủ động, có việc còn trông chờ vào chỉ đạo của cấp trên. Năng lực, trình độ của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.

Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đồng thời tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Thông báo kết luận số 156-TB/TW, ngày 10/10/2019 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong tình hình mới với những nội dung sau:

I- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU

1. Quan điểm

Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên, công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng, đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm; kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra, giám sát với giáo dục chính trị, tư tưởng, giữa tự kiểm tra của tổ chức đảng, đảng viên với kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên.

Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu phải thường xuyên, coi trọng đúng mức công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, tạo điều kiện thuận lợi cho ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Điều lệ Đảng.

Việc kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng hoặc những vấn đề gây bức xúc tại địa phương, cơ quan, đơn vị. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ủy ban kiểm tra với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy, cơ quan, đơn vị có liên quan; phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát.

2. Mục tiêu

2.1. Mục tiêu chung

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, quyết tâm hành động của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp, cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Người đứng đầu cấp ủy phải xác định rõ trách nhiệm của mình, trực tiếp, thường xuyên chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong đảng.

Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên, bảo đảm các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện đúng quy định, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, đồng thời tạo điều kiện cho các nhân tố mới có cơ hội, điều kiện để phát triển.

Qua kiểm tra, giám sát đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng viên để phát huy, nhân rộng, kịp thời phát hiện, uốn nắn, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm từ khi mới nảy sinh để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm trong nội bộ, ngay tại cơ sở và xử lý nghiêm khi có vi phạm, góp phần xây dựng Đảng bộ tỉnh trong sạch, vững mạnh.

2.2. Mục tiêu cụ thể

(1)- Cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp, các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp ủy hoàn thành 100% các cuộc kiểm tra, giám sát trong chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm đề ra.

(2)- Cấp ủy phân công cấp ủy viên phụ trách 100% địa bàn, lĩnh vực; ủy ban kiểm tra các cấp phân công ủy viên ủy ban kiểm tra, công chức cơ quan ủy ban kiểm tra thực hiện giám sát thường xuyên đối với 100% tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp và đảng viên thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý.

(3)- Kiểm tra 100% tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.

(4)- Giải quyết 100% đơn, thư tố cáo, khiếu nại về kỷ luật đảng thuộc thẩm quyền bảo đảm đúng quy định.

II- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiếp tục đẩy mạnh việc học tập chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và giáo dục, tuyên truyền, học tập, quán triệt mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo tinh thần Nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp, các nghị quyết, quy định, hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong Đảng do Trung ương quy định; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về nhận thức và trách nhiệm, quyết tâm chính trị của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp, người đứng đầu đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho ủy ban kiểm tra thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng, nhất là những vụ việc khó khăn, phức tạp, nhạy cảm hoặc những vấn đề mới phát sinh.

2. Cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát toàn khóa và hằng năm có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, cơ quan, đơn vị; phân công các thành viên cấp ủy, ủy viên ủy ban kiểm tra phụ trách và kiểm tra, giám sát theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Cần xác định lĩnh vực, địa bàn trọng tâm, trọng điểm để tập trung kiểm tra, giám sát; những lĩnh vực dễ nảy sinh tiêu cực, như công tác tổ chức, cán bộ, quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên, tài chính, tài sản công, dự án đầu tư...

Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các chỉ thị, nghị quyết, quyết định, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cấp ủy viên các cấp, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng về chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế làm việc; trách nhiệm nêu gương, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, thực thi nhiệm vụ, quyền hạn được giao; kê khai tài sản, thu nhập, thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Thực hiện Quy định số 11-QĐi/TW, ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân; Quy định số 01-QĐi/TW, ngày 10/5/2018 của Bộ Chính trị về trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong công tác phòng, chống tham nhũng.

3. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản, quy định, quy trình, hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, bảo đảm khoa học, đồng bộ, thống nhất để triển khai thực hiện trong toàn Đảng bộ. Tăng cường nghiên cứu, trao đổi, học tập kinh nghiệm về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, phòng, chống tham nhũng; chú trọng phổ biến các kinh nghiệm hay, cách làm hiệu quả.

4. Thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy, cơ quan, đơn vị có liên quan; phối hợp chặt chẽ giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, nhất là trong việc cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu liên quan đến tổ chức đảng và đảng viên; phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt nam các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến về công tác kiểm tra, giám sát; chủ động cung cấp thông tin sau mỗi kỳ họp ủy ban kiểm tra, nhất là kết quả kiểm tra, xử lý các vụ việc trên các phương tiện thông tin đại chúng góp phần phòng ngừa, giáo dục, răn đe, cảnh tỉnh vi phạm, tạo đồng thuận và hiệu ứng tốt trong xã hội.

Gắn công tác kiểm tra, giám sát của địa phương, đơn vị với việc thực hiện các nghị quyết của cấp ủy cấp trên và cấp mình; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Kiên quyết xử lý nghiêm những tổ chức đảng, đảng viên cố tình vi phạm, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, sự phát triển của địa phương, đất nước.

5. Ủy ban Kiểm tra các cấp nâng cao chất lượng tham mưu giúp cấp ủy trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng; thực hiện toàn diện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng, trọng tâm là kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm với tinh thần chủ động hơn, quyết tâm cao hơn, quyết liệt hơn, tập trung vào những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực, sai phạm; nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Đảng, kiểm tra tài chính Đảng; tăng cường giám sát thường xuyên và giám sát chuyên đề, trong đó mở rộng giám sát trên các địa bàn, lĩnh vực, tập trung vào những tổ chức đảng có biểu hiện mất đoàn kết, có vấn đề phức tạp mới nảy sinh, dư luận xã hội quan tâm để kịp thời nhắc nhở, cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm từ sớm.

Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn của ủy ban kiểm tra cấp trên đối với hoạt động của ủy ban kiểm tra cấp dưới theo Quy định số 195-QĐ/TW, ngày 18/6/2019 của Ban Bí thư, khi cần thiết kiểm tra các cấp để thúc đẩy và tạo chuyển biến tích cực, toàn diện, rõ rệt hơn đối với ủy ban kiểm tra các cấp trong Đảng bộ tỉnh.

6. Việc xem xét, thi hành kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên phải thực hiện đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục, thẩm quyền, vận dụng phù hợp các quy định của Đảng để xem xét, xử lý các trường hợp vi phạm bảo đảm nghiêm minh, chính xác, khách quan, kịp thời, mục đích là làm cho tổ chức đảng, đảng viên thấy được vi phạm, khuyết điểm để khắc phục, sửa chữa, tiến bộ hơn, làm tốt hơn. Giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại về kỷ luật Đảng, tố cáo đối với tổ chức đảng, đảng viên theo quy trình, quy định.

7. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát có bản lĩnh, liêm chính, năng lực, uy tín và chuyên môn giỏi. Tiếp tục thực hiện luân chuyển, điều động cán bộ lãnh đạo, quản lý một số ngành, địa phương về ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra sang công tác ở một số ngành, địa phương khác để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ theo Thông báo kết luận số 312-TB/TW, ngày 09/3/2010 của Ban Bí thư. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

8. Định kỳ sơ kết, tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng để kịp thời phát huy kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, rút ra những kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.

III- TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tổ chức phổ biến, quán triệt Nghị quyết này; lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết.

2. Các huyện ủy, thị ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh; các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy; các đảng đoàn, ban cán sự đảng, Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện Nghị quyết.

3. Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy chủ trì, phối hợp với Văn phòng Tỉnh ủy, các cơ quan liên quan hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Nghị quyết và định kỳ báo cáo kết quả với Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy; tham mưu sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết.

Nghị quyết này phổ biến đến Chi bộ.

                                                                                                                    T/M TỈNH ỦY

                                                                                                                     BÍ THƯ

                                                                                                                         Nguyễn Văn Thắng

.