Đại thắng mùa Xuân năm 1975: Kết quả hội tụ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng

Thứ Sáu, 17/04/2015, 15:17 [GMT+7]

Điện Biên TV - Kể từ nửa cuối của thế kỷ XX đến nay và mãi về mai sau, là con dân nước Việt, mỗi khi Xuân qua, Hè đến, không ai là không nhớ tới trận Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Đó không chỉ là sự hoài niệm về một thời chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ, nhưng rất đỗi vinh quang và tự hào của lớp lớp cha anh, mà hơn thế, đây là dịp để mỗi chúng ta chiêm nghiệm sâu sắc hơn nguồn cội sức mạnh đòan kết của dân tộc Việt Nam ta trong công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sẽ không thể tìm được nguyên nhân đích thực của chiến thắng 30/4/1975 ở những nhân tố riêng biệt. Cũng không thể cắt nghĩa được tại sao sau hơn hai mươi năm Việt Nam đã đánh bại ý chí xâm lược của một cường quốc hàng đầu thế giới trong thế kỷ XX. Chỉ có thể biết được điều này qua việc tìm hiểu kết quả hợp thành của các nhân tố bên trong và bên ngoài, dân tộc và thời đại, có liên quan tới cuộc đụng đầu lịch sử giữa đế quốc Mỹ và toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh này, cả dân tộc Việt Nam lại một lần nữa đứng trước sự lựa chọn mang tính sống còn trước vận mệnh dân tộc; giữa độc lập, tự do và nô lệ; giữa toàn vẹn lãnh thổ và chia cắt lâu dài.

c
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 (Ảnh: Nguồn internet)

 

Lần giở lại những trang sử thời kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đọc những con số, suy ngẫm về các sự kiện liên quan tới giai đoạn lịch sử này, chúng ta càng thấm sâu hơn những nhân tố làm nên sức mạnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Sức mạnh đó bắt nguồn từ lòng yêu nước, từ niềm tin son sắt của nhân dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp chính nghĩa “Vì thống nhất Tổ quốc, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

Lịch sử mãi khắc ghi: Vào những năm sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954) được ký kết, được sự giật dây của đế quốc Mỹ, Ngô Đình Diệm lê máy chém đi khắp miền Nam, gây ra các vụ thảm sát man rợ như Hướng Đen, Phú Lợi, Vĩnh Trinh... Trong tháng ngày tháng đen tối đó, ở trong lòng mỗi người dân miền Nam, niềm tin yêu Đảng, Bác Hồ lại càng trở nên sâu sắc hơn. Đồng bào luôn khẳng định “… Đất nước này chỉ một Ngọn cờ Vàng sao”. Tình cảm đó, niềm tin đó không những không một thế lực nào, không một thủ đoạn nào có thể xoá được, mà còn luôn luôn được bồi đắp, trở thành nhân tố cốt lõi, thành nền móng cho việc khởi phát phong trào Đồng Khởi mùa Xuân 1960, đập tan từng mảng chính quyền ngụy Sài Gòn ở nhiều vùng nông thôn miền Nam rộng lớn. Cuộc Đồng Khởi đã làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà đế quốc Mỹ thiết lập tại miền Nam Việt Nam, đưa cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Thắng lợi của phong trào Đồng Khởi trước hết là thắng lợi của sức mạnh toàn dân, dưới ánh sáng của đường lối cách mạng miền Nam của Đảng; thắng lợi của sức mạnh quật khởi được tạo nên từ lòng Dân - ý Đảng, thông qua sự tập hợp đông đảo lực lượng yêu nước, nặng lòng với dân tộc, không phân biệt giai tầng, địa vị xã hội, quá khứ, sắc tộc, tín ngưỡng của Mặt trận Dân tộc thống nhất miền Nam Việt Nam... nhằm mục tiêu chung vì một miền Nam sạch bóng ngoại xâm, tiến tới hòa bình, hòa hợp dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

Sau Đồng Khởi và bắt đầu từ đó, phong trào đấu tranh yêu nước, phong trào cách mạng miền Nam ngoặt sang chặng đường mới, chặng đường phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân, của chiến tranh nhân dân, đánh bại các cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ xâm lược. Bắt đầu từ Chiến thắng Ấp Bắc (02/01/1963) đã chứng tỏ sự trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng, đến Hội nghị Chính trị đặc biệt do Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập ngày 27/3/1964 được xem như một “Hội nghị Diên Hồng”, biểu thị ý chí, nghị lực và quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, đấu tranh lại âm mưu và hành động “leo thang”, mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ ra cả hai miền Nam, Bắc. Thời điểm này, sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc Việt Nam được thể hiện rõ và mạnh hơn bao giờ hết. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” trở thành hành động của tất cả các tầng lớp nhân dân miền Bắc. Khắp mọi địa phương đã dấy lên các phong trào thi đua vì miền Nam ruột thịt như phong trào: Thanh niên “ba sẵn sàng”, Phụ nữ “ba đảm đang”, Nông dân “tay cày tay súng”, Công nhân “tay búa tay súng”, Học sinh “làm nghìn việc tốt chống Mỹ, cứu nước”... thu hút đông đảo mọi tầng lớp, mọi thành phần, mọi lứa tuổi, từ miền xuôi đến miền núi, từ thành thị tới nông thôn... tham gia. Dưới khói lửa đạn bom của máy bay, tàu chiến Mỹ, nhân dân miền Bắc không hề nao núng, quyết tâm vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa dồn sức chi viện mạnh mẽ, liên tục, ngày càng tăng cường hơn cho tiền tuyến miền Nam. Tại miền Nam, quân và dân các địa phương, các chiến trường đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và binh vận trên khắp ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị.

Nhằm đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, ta đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, mà hướng chính là các đô thị trên toàn miền Nam. Cuộc tiến công táo bạo này khởi phát đúng vào lúc những nỗ lực chiến tranh của đế quốc Mỹ lên tới đỉnh cao nhất, nên đã gây cú sốc mạnh, làm choáng váng nước Mỹ, đồng thời làm cho giới lãnh đạo cao cấp Mỹ chán ngán, nản lòng, phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc, trút dần gánh nặng chiến tranh lên vai chính quyền và quân đội Sài Gòn, ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri. Tiếp sau sự kiện Tết Mậu Thân, quân và dân ta lại anh dũng vượt qua bao thử thách, hy sinh, tăng cường liên minh chiến đấu với cách mạng Lào và Cam-pu-chia, đánh thắng địch ở Đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Cam-pu-chia, ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia (năm 1971); tiến công mãnh liệt, đập vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài kiên cố của địch ở Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ trên vùng trời Hà Nội, Hải Phòng (tháng 12-1972)… buộc đối phương dù còn rất ngoan cố và rất hiếu chiến vẫn phải ngồi lại bàn đàm phám và tiến hành ký kết Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Sau Hiệp định Pa-ri, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc đang chuyển biến mau lẹ. Với tư tưởng chỉ đạo “một ngày bằng hai mươi năm”, chớp thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị Trung ương Đảng hạ quyết tâm động viên sức mạnh cao nhất của cả nước, kiên quyết giải phóng hoàn toàn miền Nam. 11 giờ 30 phút trưa 30/4/1975, Lá cờ cách mạng phấp phới tung bay trên cột cờ cao nhất Dinh Độc Lập, báo hiệu Chiến dịch lịch sử mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu toàn thắng, sự nghiệp giải phóng miền Nam toàn thắng! Một lần nữa, sức mạnh Việt Nam - sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc lại đã ngời sáng, khi một Sài Gòn được tiếp quản hầu như nguyên vẹn, không hề diễn ra một biểu hiện trả thù hay một cuộc “tắm máu” nào như kẻ thù vẫn thường rêu rao. Sài Gòn trưa 30/4 ngập tràn sắc đỏ của rừng cờ, rừng hoa mừng ngày vui đại thắng.

40 năm đã đi qua, kể từ mốc vàng chói lọi 30/4/1975! Mỗi lần nhớ lại, càng thấm thía hơn và biết mấy tự hào về những tháng năm toàn dân tộc đoàn kết một lòng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dốc sức đánh giặc vì độc lập dân tộc, thống nhất non sông. Đây cũng chính là kết quả hội tụ và bài học “phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” cần được tiếp tục nhân rộng và phát huy cao độ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hôm nay./.

 

Nguyễn Vân Chương
UVBTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

 

.