Canh tác trên nương ở Điện Biên Đông

Thứ Ba, 05/08/2014, 09:49 [GMT+7]

Điện Biên TV - Điện Biên Đông là huyện vùng cao với địa hình chủ yếu là đồi núi có độ dốc lớn. Do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt cộng với sự tàn phá của con người nên đến nay, nhiều diện tích đất ở Điện Biên Đông là đồi núi trọc. Trong khi đó, nông dân ở đây vẫn canh tác theo tập quán lạc hậu đã làm cho năng suất cây trồng giảm. Lâu dài còn làm cho đất trở thành vùng đất trống, đồi núi trọc với độ thoái hoá nặng đến mức khó có thể phục hồi nếu như không đầu tư cao và kịp thời.

fh fh
Trong nhiều năm nay, Điện Biên Đông đã vận động nhân dân tổ chức khai hoang ruộng bậc thang và nương có bờ nhằm tránh xói mòn, rửa trôi đất

Diện tích đất sản xuất nông nghiệp của Điện Biên Đông đã ít, song dân số vẫn tiếp tục gia tăng dẫn đến tỷ lệ bình quân diện tích đất nông nghiệp chia cho đầu người bị giảm xuống. Thiếu đất, nông dân phải canh tác trên những triền đất có độ dốc cao hơn 15 độ. Ở những địa hình có độ dốc lớn như thế này thường chịu xói mòn rất mạnh. Cùng với đó là thời gian canh tác thường bị rút ngắn. Dưới tác động của thiên nhiên như mưa lũ xảy ra thường xuyên, xói mòn, sạt lở... cộng với phương pháp canh tác lạc hậu của người dân địa phương thì độ phì và các tính chất lý hoá của đất chưa được tái tạo đủ mức cần thiết cho sinh trưởng, phát triển của cây trồng nông nghiệp. Bởi vậy, năng suất cây trồng thường đạt thấp. Thường thì chỉ đạt khoảng vài tạ trên một ha.

Mường Luân là một trong những xã trọng điểm trong việc sản xuất ngô ở Điện Biên Đông. Ở hầu hết diện tích trên nương, nông dân chuyên canh cây ngô đã từ lâu. Phần lớn diện tích canh tác của bà con nông dân là trên nương, rẫy. Theo đồng chí Lò Văn Định, Phó Chủ tịch UBND xã Mường Luân cho biết: Việc áp dụng các biện pháp canh tác tiên tiến để cải tạo đất đối với bà con nông dân ở đây vẫn còn rất hạn chế. Ví như, 1 bản thì chỉ có khoảng từ 5 - 10 hộ dân biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, còn lại đa số người dân vẫn chưa biết áp dụng.

Thực tế ở những huyện vùng cao như Điện Biên Đông thì diện tích đất bằng để trồng lúa rất hiếm. Vì thế, để đảm bảo lương thực người ta phải canh tác ở đất dốc là điều không thể tránh khỏi. Trải qua quá trình lâu đời, lối canh tác nương rẫy trở thành tập quán ăn sâu vào đời sống đồng bào các dân tộc nơi đây. Đồng chí Nguyễn Trọng Huế, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Điện Biên Đông cho biết: Thực tế là do đặc thù của huyện miền núi nên phương thức canh tác của bà con vẫn theo cách cổ truyền. Tức là Cấy chay, ít thâm canh nên đất nhanh chóng bị bạc màu.

Trong mấy năm gần đây, từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua các chương trình, dự án được đầu tư, Điện Biên Đông đã có nhiều nỗ lực trong việc giúp nông dân canh tác bền vững trên những địa hình đất dốc. Đồng chí Nguyễn Trọng Huế, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Điện Biên Đông cho biết thêm: Để thực hiện việc canh tác bền vững trên đất dốc, trong những năm qua, được sự quan tâm của các chương trình và dự án, đặc biệt là chương trình 30a thì huyện đã tập trung đầu tư, hỗ trợ cho người dân để mở rộng diện tích khai hoang ruộng nước hoặc làm nương có bờ. Cùng với đó, huyện cũng tập trung đầu tư hỗ trợ giống cây trồng có năng suất cao, phù hợp với từng địa bàn để người dân phát triển sản xuất.

fh
Người dân đã biết tận dụng một số loại cây thân mềm để làm phân xanh

Theo những nghiên cứu của Viện Khoa học miền núi phía Bắc cho thấy: Mỗi năm, quá trình đất mặt bị rửa trôi từ 80-120 tấn/ha. Việt Nam có khoảng hơn 9 triệu ha đất liên quan tới sa mạc hoá, trong đó có 2 triệu ha đất đang được canh tác đã bị thoái hoá nặng và hơn 2 triệu ha đang có nguy cơ thoái hoá cao. Điều đó dẫn tới độ phì của đất đang bị suy giảm nặng nề do xói mòn, rửa trôi, nguy cơ đá ong hoá, sa mạc hoá đang hiện hữu trước mắt. Phần lớn những diện tích đó tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi có độ dốc lớn, sự chia cắt mạnh. Những năm qua, Viện Khoa học miền núi phía Bắc đã triển khai đề tài nghiên cứu một số kỹ thuật canh tác bền vững trên đất dốc ở vùng núi tại các tỉnh phía Bắc, trong đó có Điện Biên với các phương pháp nghiên cứu: Kỹ thuật che phủ đất, kỹ thuật tiểu bậc thang, kỹ thuật trồng xen các loại cây họ đậu trên diện tích đất có độ dốc lớn.

Một giải pháp được xem như là có tính khả thi được Điện Biên Đông áp dụng từ nhiều năm nay là thực hiện vận động nhân dân tổ chức khai hoang ruộng bậc thang và nương có bờ. Việc làm này cũng đã được triển khai rất hiệu quả và thiết thực, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Chỉ tính riêng từ đầu năm đến nay, các địa phương trong huyện Điện Biên Đông đã tổ chức khai hoang được khoảng 60ha. Song song với đó, chính quyền huyện cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc vận động nhân dân chuyển đổi phương thức và tập quán sản xuất nhằm canh tác bền vững, có hiệu quả. Đồng chí Trần Văn Thượng, Phó Chủ tịch UBND huyện Điện Biên Đông cho biết: Trong những năm qua, khi người dân khai hoang các diện tích mới, huyện Điện Biên Đông đã vận động họ dùng các biện pháp cải tạo đất như trồng cây khoai lang, đậu tương... Đồng thời, huyện cũng chỉ đạo bà con tận dụng một số loại cây thân mềm để làm phân xanh, đầu tư phân chuồng kết hợp với phân hóa học để cải tạo diện tích đó từ 2 đến 3 năm, thì người dân mới bắt đầu trồng lúa.

Nhiều năm trở lại đây, các tổ chức trong và ngoài nước đã xây dựng các chương trình nghiên cứu về canh tác bền vững trên đất dốc. Theo quan điểm của các chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp thì hướng tiếp cận tốt nhất để cải tạo và giữ gìn chất lượng đất là áp dụng các biện pháp nông nghiệp sinh thái như: Tái sử dụng tàn dư cây trồng và phân hữu cơ nguồn gốc động vật, giảm sử dụng hoá học trong nông nghiệp, tăng cường áp dụng các loại cây che phủ, nhất là cây họ đậu để vừa bảo vệ, vừa cải tạo đất. Thực tế cho thấy, phần lớn bà con nông dân ở các địa bàn vùng cao của Điện Biên Đông vẫn giữ tập quán sản xuất lạc hậu. Tình trạng du canh đối với đồng bào dân tộc Mông vẫn diễn ra. Chính vì vậy, cùng với cuộc vận động nhân dân định canh, định cư thì các địa phương trong huyện cũng đang phải chấp nhận hình thức canh tác trên nương rẫy.

Theo các cơ sở nghiên cứu khoa học, để cải tạo đất tốt, các địa phương phải quan tâm phát triển các kỹ thuật tối đa hoá sinh khối, độ che phủ mặt đất và tính liên tục của lớp phủ để chống xói mòn đất, tăng cường hoạt tính sinh học, tăng cường các quá trình tái tạo dinh dưỡng, tái tạo các tính chất cơ bản của đất. Có rất nhiều biện pháp kỹ thuật đơn giản để có thể giúp bà con có thể canh tác bền vững trên đất dốc, mà người nông dân hoàn toàn có thể áp dụng được. Ví dụ như kỹ thuật che phủ đất bằng chính thân cây trồng đã thu hoạch như: Rơm rạ, thân cây ngô hoặc cỏ rác, xác thực vật khô. Việc che phủ không chỉ ngăn chặn xói mòn của đất mà còn tăng độ ẩm, khống chế cỏ dại, sau khi lớp che phủ phân huỷ tạo ra độ mùn và tăng cường hoạt tính sinh học cho đất. So sánh diện tích đất che phủ và diện tích đất không che phủ, năng suất diện tích che phủ tăng 30- 60% đối với ngô, 30-100% đối với lúa nương. Kỹ thuật tiểu bậc thang, làm các bậc thang đồng mức phù hợp với từng loại cây trồng, chống sự rửa trôi đất màu. Kỹ thuật này nếu được kết hợp với kỹ thuật che phủ đất và trồng xen cây họ đậu, đã giảm mức độ rửa trôi từ 100% xuống còn 6%, năng suất tăng từ 27-57%.

Đối với huyện vùng cao, trình độ dân trí không đồng đều, đời sống còn nhiều khó khăn như Điện Biên Đông thì việc áp dụng những biện pháp canh tác tiên tiến để cải tạo đất cũng không phải là việc làm đơn giản. Việc thực hiện đại trà các kỹ thuật tiên tiến trong canh tác trên đất dốc không thể tiến hành ngay trong một sớm một chiều.

Những chương trình, dự án đã và đang triển khai ở Điện Biên Đông cùng với những nỗ lực của chính quyền địa phương, đều xuất phát từ mục đích nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Mặc dù vậy thì vấn đề then chốt ở đây là cần phải làm thay đổi nhận thức của bà con nhân dân. Có như vậy, mới có thể giúp nông dân vùng cao thoát khỏi cái vòng đói nghèo luẩn quẩn vẫn đang đeo bám lấy cuộc sống của bà con vùng cao suốt bao nhiêu đời nay./.

 

Minh Thịnh

.