Quá trình quy thuộc Nam Hải (Biển Đông) qua một số bản đồ từ cuối đời nhà Thanh đến thời kỳ (Trung Hoa) Dân Quốc

Thứ Sáu, 07/12/2012, 09:50 [GMT+7]

Qua khảo sát 23 tấm bản đồ từ cuối đời Thanh đến năm 1948, có thể rút ra một số kết luận quá trình quy thuộc Nam Hải (Biển Đông) qua các giai đoạn lịch sử phát triển

01-5-2012    Tác giả: 尼伯龙根•蜗藤

TRƯỚC THẾ KỈ 20:

1. Thanh Đại Nhất Thống Địa Đồ (năm 1760): Thuyết minh về cương vực thời kì Đại Thanh. Theo hiển thị trên bản đồ thì cương giới phía nam của Trung Quốc kết thúc ở đảo Hải Nam.

 

2. Đại Thanh Nhất Thống Thiên Hạ Toàn Đồ (năm 1818) do Chu Tích Linh vẽ (Từ “Địa đồ Trung Quốc”, Thư viện Đại học Hongkong, năm 2003), là tấm bản đồ về cương giới quốc gia với đường biên giới của Trung Quốc được viền màu đỏ. Kim Môn, Hạ Môn và đảo Hải Nam đều dùng màu đỏ vẽ liền với đại lục, còn Đài Loan và quần đảo Đan Sơn thì được khoanh tròn riêng bằng màu đỏ, để chứng tỏ là một phần của Trung Quốc. Trên bản đồ có xuất hiện hai cái tên Vạn Lý Trường Sa (Trường Sa) và Thiên Lý Thạch Đường (Hoàng Sa), nhưng những địa danh này cùng với Johor, Mãn Thích Gia (Anh: Strait of Malacca; Malai: Selat Melaka) và Srivijaya… đều nằm ngoài cương giới lãnh thổ Trung Quốc.

 

 3. Hải Quốc Đồ Chí (năm 1852) là cuốn thư tịch về địa lí thế giới do Ngụy Nguyên biên soạn. Trong Duyên cách đồ cách quốc Đông Nam Dương (biển Đông Nam) ở sách này có xuất hiện các địa danh Vạn Lý Trường Sa và Thiên Lý Thạch Đường. Một số sách của Trung Quốc đã dẫn tấm bản đồ này làm chứng cứ cho chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa), song không hề có căn cứ, vì: Tên bản đồ chỉ chính xác đây là bản đồ Đông Nam Á và trên bản đồ, không có bất cứ kí hiệu gì thể hiện
Vạn Lý Trường Sa và Thiên Lý Thạch Đường thuộc Trung Quốc.

 

 4. Quảng Đông Đồ (năm 1866), là tập bản đồ chi tiết về khu vực Quảng Đông. Chính phủ Dân quốc luôn tuyên bố xét về lịch sử, các quần đảo ở Nam Hải là một phần của Quảng Đông. Tập bản đồ này hiển thị đất thuộc Quảng Đông chỉ bao gồm Hải Nam và các đảo ngoài khơi Quảng Đông, thậm chí còn không bao gồm cả Đông Sa.

 

THẾ KỶ 20:

5. Đại Thanh Đế Quốc Toàn Đồ (năm 1905). Nguồn từ “Trung Quốc Cổ Địa Đồ Trân Tập”, Nhà xuất bản bản đồ Tây An, năm 1995. Cương giới phía Nam của Trung Quốc trên bản đồ chỉ tới đảo Hải Nam.

 

  6. Trung Quốc Cận Thế Dư Địa Đồ Thuyết (năm 1908), do La Nhữ Nam biên soạn, đây là một bộ trước tác địa lí học đồ sộ của Trung gồm 8 tập 23 quyển. Trong sách ghi rõ cương giới phía nam của Trung Quốc là cực nam của đảo Hải Nam và đều không thấy các đảo Nam Hải ở Trung Quốc Toàn Đồ hay Quảng Đông Địa Đồ trong bộ sách này.

 

 7. Nhị Thập Thế Kỉ Trung Ngoại Đại Địa Đồ (năm 1908). Trong tập bản đồ này, cương giới phía nam của Trung Quốc cũng chỉ tới cực nam đảo Hải Nam. Bản đồ Châu Á trong tập bản đồ này hoàn toàn không có đánh dấu các đảo ở Nam Hải trong khi phần lớn các bản đồ trên thế giới cùng thời kì đều thể hiện các đảo ở Nam Hải. Trái lại, quần đảo Andaman của Ấn Độ và quần đảo Natuna của Nam Hải lại đều có xuất hiện trên các bản đồ này.

 

 

 8. Quảng Đông Dư Địa Toàn Đồ (năm 1909). Đây là tấm bản đồ vẽ Tây Sa và Đông Sa vào trong lãnh thổ Trung Quốc sớm nhất trong số những bản đồ vào cuối triều Thanh. Tuy nhiên, việc bản đồ không thể hiện hai quần đảo Trung Sa và Nam Sa, cho thấy hai quần đảo này khi ấy vẫn chưa nằm trong tầm ngắm của đế quốc Đại Thanh.

 

TỪ NĂM 1911 ĐẾN NĂM 1935: Năm 1911, Trung Hoa Dân Quốc thành lập. Công tác bản đồ của Trung Quốc thời kỳ này cơ bản vẫn vẽ theo hệ bản đồ thời cuối nhà Thanh.

9. Trung Quốc Tân Hưng Đồ (năm 1915). Bản đồ này xuất bản ở Thượng Hải, trong đó cực nam của Trung Quốc vẫn chỉ đến đảo Hải Nam, giống như tình hình năm 1908

 

Bản đồ này là tái bản, có thể nghĩ rằng bản đầu tiên của nó cũng như vậy. Qua đó có thể thấy, mặc dù năm 1909 Lý Chuẩn đã tuyên bố chủ quyền khi đến Tây Sa [Hoàng Sa], nhưng khá nhiều người biên vẽ bản đồ, nhất là những người không phải dân Quảng Đông vẫn không hề coi Tây Sa là thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Nên cái gọi là “Tây Sa là một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc” chưa hề trở thành nhận thức chung của xã hội.

10. Trung Quốc Tân Hưng Đồ (năm 1917). Trong tấm bản đồ Trung Quốc tân hưng thứ 3 năm 1917, cực nam của Trung Quốc vẫn chỉ là đảo Hải Nam.

 

 

11. Trung Hoa Dân Quốc Tân Khu Vực Đồ (năm 1917). Chỉ có quần đảo Tây Sa bị quy nạp vào cương vực của Trung Quốc.

 

 12. Trung Quốc Địa Lý Duyên Cách Đồ: Là tập bản đồ lịch sử xuất bản năm 1922, trong đó tấm bản đồ Dân quốc cũng chỉ vẽ trong khung vuông phụ các đảo Tây Sa.

 

 13. Trung Quốc Tân Hình Thế Đồ (năm 1922). Đây là một phần trong cuốn tập hợp bản đồ sách giáo khoa địa lý tham khảo, về độ chính xác thì không được như bản đồ ở phần trên, nhưng lại nói rõ hơn phạm vi bản đồ Trung Quốc trong con mắt của xã hội. Cũng như hai tấm bản đồ nói trên, cực nam của Trung Quốc vẫn chỉ đến “Tây Sa”.

 

14. Trung Hoa Triết Loại Phân Tỉnh Đồ (năm 1931). Cực nam Trung Quốc vẫn ở Tây Sa.

 

 15. Trung Hoa Dân Quốc Tân Địa Đồ (Thân báo, năm 1934). Để kỷ niệm 60 năm ra đời, Thân báo tổ chức đợt biên chọn bản đồ có tính chính thống nhất trong thời kỳ Dân Quốc. Trong tập bản đồ này, bản đồ của Trung Quốc vẫn chỉ bao gồm “Tây Sa” và “Đông Sa”.

 

 SAU NĂM 1935: Từ năm 1935, chính phủ Dân quốc bắt đầu tiến trình mở cương giới bản đồ đối với Nam Hải.

16. Trung Quốc Phân Tỉnh Tân Đồ (Thân báo). Đây là bản tái bản tập bản đồ do Thân báo biên tập đã được nói đến ở trên. Trên bản đồ đã thấy xuất hiện các dòng chữ quần đảo Nam Sa và quần đảo Đoàn Sa. Quần đảo Nam Sa khi ấy là chỉ quần đảo Trung Sa hiện giờ, còn quần đảo Đoàn Sa khi ấy là chỉ quần đảo Nam Sa hiện giờ.

 

 17. Trung Hoa Dân Quốc Bưu Chính Dư Đồ (năm 1936). Trên tập bản đồ này xuất hiện nhiều đảo ở Nam Hải hơn.

 

 

 18. Trung Quốc Phân Tỉnh Đồ (năm 1936). Tập bản đồ này cũng có cả quần đảo Trung Sa (Nam Sa) và quần đảo Nam Sa (Đoàn Sa). Nhưng, đảo Hoàng Nham không nằm trong phạm vi quần đảo Trung Sa (Nam Sa). Có thể thấy, vào năm đầu tiên chính phủ Dân quốc mở rộng cương giới bản đồ, đảo Hoàng Nham có phải là một phần của Trung Quốc hay không, điều này vẫn chưa có sự đồng quan điểm trong đội ngũ những người biên tập bản đồ.

 

 

 19. Trung Quốc Tỉnh Thị Địa Phương Tân Đồ (năm 1939). Đến năm 1939, việc mở rộng cương giới bản đồ đã được sự thừa nhận phổ biến trong các nhà bản đồ học Trung Quốc, những địa điểm không được đánh dấu tên trên bản đồ năm 1936 đã được đánh dấu tên ở đây. Trong tập bản đồ này có riêng một bản đồ về các quần đảo Nam Hải. Đảo Hoàng Nham được gọi tên là Ska Barlow Reef. Điều thú vị là, trên bản đồ này, đảo Hoàng Nham lại không phải là một phần của quần đảoTrung Sa, cả nó và Trudeau reef (Trudeau Road reef) đều được đánh dấu riêng ra, rồi có thêm dòng chữ “thuộc Trung Quốc”.

 

 

20. Hiện Đại Bản Quốc Địa Đồ (năm 1939). Đây là cuốn sách giáo khoa trung học. Phạm vi các đảo Nam Hải cũng tương tự như ở tập bản đồ trên. Đảo Hoàng Nham cũng được gọi là Ska Barlow Reef.

 

 21. Trung Quốc Phân Tỉnh Minh Tế Đồ (năm 1940). Cuốn bản đồ này có đường phân giới liền nhau ở Nam Hải vẽ chiểu theo đường bờ biển của các quốc gia Nam Hải khác. Có thể nói, Đường 9 đoạn (Đường 11 đoạn) sau này về cơ bản là tiếp tục dùng những bản đồ này. Xem xét từ cuối đời Thanh tới năm 1940 (tạm chưa nói đến thời kì cổ hơn),Trung Quốc chưa từng thừa hành, mang tính thực chất, bất cứ một lần chủ quyền nào ở quần đảo Nam Sa, ngoài việc mở cương giới trên bản đồ.

 

 22. Trung Quốc Phân Tỉnh Tân Địa Đồ (năm 1947). Trung Quốc đã vẽ Đường 11 đoạn trên bản đồ Nam Hải (về sau nước Cộng hòa sửa lại thành Đường 9 đoạn) đồng thời đặt tên lại cho các đảo ở Nam Hải. Chưa có lý giải về việc vì sao chính phủ Dân quốc lại vẽ đường ranh giới trên bản đồ Nam Hải thành đường đứt khúc. Các tên gọi quần đảo Trung Sa và quần đảo Nam Sa bắt đầu có từ đó. Trên tập bản đồ này, còn có một điểm đáng chú ý là đường hải giới ở mé đông Đài Loan khi ấy không hề bao gồm đảo Điếu Ngư trong đó.

 

 23. Trung Quốc Phân Tỉnh Tân Đồ (Thân báo, 1948). Đây là bản tái bản lần thứ 5 tập Trung Hoa Dân Quốc Tân Địa Đồ của Thân báo. Khác với bản đồ trên, đường phân giới Nam Hải vẫn tiếp tục dùng đường liền từ trước chiến tranh và rất khó xác nhận được đường liền này có trùng với đường đứt đoạn ở bản đồ trên hay không.

 

 

 KẾT LUẬN NGẮN GỌN:

Qua khảo sát 23 tấm bản đồ từ cuối đời Thanh đến năm 1948, có thể rút ra một số kết luận ngắn gọn (lưu ý rằng những kết luận này chỉ là sự miêu tả các bản đồ, đồng thời cũng chỉ giới hạn trong 23 tấm bản đồ này) dưới đây:

1- Trước năm 1908, tất cả các bản đồ Trung Quốc đều không xếp các đảo Nam Hải (VN: Biển Đông) vào phạm vi lãnh thổ Trung Quốc.

2- Từ năm 1909 đến giữa năm 1917, bản đồ Trung Quốc dần dần đưa Tây Sa (VN: Hoàng Sa) và Đông Sa vào lãnh thổ Trung Quốc.

3- Từ năm 1917 đến năm 1934, tất cả các bản đồ Trung Quốc đều đưa Tây Sa và Đông Sa vào lãnh thổ Trung Quốc. Nhưng Trung Sa và Nam Sa (VN: Trường Sa) thì không phải là một phần của Trung Quốc trên bản đồ.

4- Sau khi mở rộng cương giới bản đồ vào năm 1935, tất cả các bản đồ Trung Quốc đều xếp Trung Sa và Nam Sa là một phần của Trung Quốc, phần lớn các bản đồ cũng xếp đảo Hoàng Nham vào lãnh thổ Trung Quốc. Đường phân giới Nam Hải xuất hiện sớm nhất vào năm 1940 trong một số bản đồ.

5- Sau năm 1947, chính phủ Dân quốc cố định đường phân giới Nam Hải dưới hình thức đường đứt đoạn. Kể từ đó, Nam Hải trên bản đồ Trung Quốc liền có hình dạng tương tự như ngày nay (trừ việc nước Cộng hòa đổi Đường 11 đoạn thành 9 đoạn)./.

 

.