Vài nét về đời sống văn hóa dân tộc HMông

Thứ Năm, 20/12/2012, 09:41 [GMT+7]

Điện Biên TV - Người HMông là một trong những dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cùng với 53 dân tộc anh em, người HMông luôn luôn là một phần của sự thống nhất trong khối đại đoàn kết các dân tộc, làm phong phú cho nền văn hoá các dân tộc Việt Nam. 

Đồng bào có câu “Lửa cháy đến đâu người HMông theo đến đó” hay “Người chạy theo nương” để nói về cuộc sống du canh du cư trước đây. Ngày nay cùng với làm nương, người Mông thực hiện định canh định cư khai hoang làm ruộng bậc thang canh tác lúa nước và ứng dụng triến bộ khoa học kỹ thuật. Vì vậy  đời sống vật chất, tinh thần đã có những chuyển biến tích cực.

1
Thiếu nữ HMông

 

 Người HMông sống quần tụ từng bản từ chục hộ đến  năm chục hộ. Vượt khó, trọng sự thật, điềm tĩnh, đoàn kết và khẳng khái là những đặc điểm nổi trội tính cách của đồng bào HMông. Ngôn ngữ dân tộc HMông nằm trong nhóm ngôn ngữ HMông - Dao thuộc ngữ hệ Nam Á. Với 5 ngành HMông là: HMông trắng ( HMôngz đơưz), HMông Hoa (HMôngz lềnhz ), H'Mông đỏ ( HMôngz Siz ), H'Mông đen ( HMôngz đuz) và  H'Mông  xanh ( HMôngz Sua).

Cùng với tiếng nói, trong những năm gần đây của người HMông chữ viết đã phục hồi trở lại. Trồng lanh dệt vải,  nghề thêu thổ cẩm, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc, cùng với nghề thủ công rèn đúc với sản phẩm: lưỡi cày, dao, cuốc, xẻng, nòng súng đạt trình độ kỹ thuật cao. Trong các loại động vật thì ngựa là con vật gần gũi, thân thiết với từng gia đình, thồ ngô, lúa, củi và để cưỡi ngựa đi chợ. Chợ phiên họp theo tên con vật, là nơi trao đổi hàng hoá, giao lưu tình cảm. Nhiều đôi nam thanh nữ tú nên duyên chồng vợ từ phiên chợ vùng cao.
 
Với người HMông dòng họ có vị trí quan trọng, theo quan niệm của đồng bào người cùng dòng họ là người anh em có cùng tổ tiên, có thể đẻ hoặc  chết trong nhà nhau. Có một quy định từ bao đời là: cấm ngặt người cùng họ không được lấy nhau. Trong cùng họ phải luôn luôn giúp đỡ, cưu mang lẫn nhau khi vui, khi buồn. Từng dòng họ cư trú quây quần thành một cụm. Trưởng họ đảm nhiệm công việc chung, là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin và làm theo.

1
 Lễ hội Thi giã bánh dày

 

Tết của người HMông xưa kia gần trùng với tết dương lịch. Ngày nay, do cuộc sống xen kẽ với nhiều dân tộc khác, phần lớn đồng bào đã ăn tết âm lịch (Tết Nguyên đán). Ngày tết là dịp để mọi người làm trọn nghĩa vụ với dòng tộc, gia đình, tổ tiên.

Vào dịp đón năm mới, hay trong mùa xuân lễ hội Gầu tào (đón năm mới) với những sinh hoạt trò chơi dân gian, dân nhạc, dân ca, dân vũ thì của nhạc cụ dân tộc được coi là tâm hồn tình cảm của người HMông gửi gắm và thể hiện tiếng lòng của mình với bạn tình, với cộng đồng. Đó là sáo, khèn, kèn lá, đàn môi. Lễ hội Gầu tào là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng.

Bên cạnh phần lễ, phần hội thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc qua các sinh hoạt cộng đồng. Với đồng bào HMông đây  là lễ hội tiêu biểu và lớn nhất. Mục đích của lễ hội là cúng tạ ơn trời đất đã ban cho thôn bản, dòng họ, gia đình sức khỏe. Phần lễ, được bắt đầu bằng việc lễ dựng cây nêu, mâm lễ và các bài cúng. Kết thúc phần lễ là đến phần hội. Phần hội với nhiều trò chơi dân gian: bắn nỏ, múa khèn, thổi sáo, ném pao, đánh tù lu, thi hát đối đáp… Đây là cơ hội  nam nữ trổ tài, gặp gỡ, tâm sự và tìm hạnh phúc cho mình.

1
Ngày hội của đồng bào dân tộc HMông

 

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người HMông, tùy từng dòng họ, trong nhà có hoặc không có bàn thờ….. Bàn thờ đặt ở vách gian chính giữa. Thường gồm 3 ống tre để cắm hương (ống giữa thờ tổ tiên, ống bên phải thờ thần trông coi việc gia đình, ống bên trái thờ thần chăm sóc sức khỏe trong gia đình).  Phía trên bàn thờ có dán giấy bản lên vách – thờ 3 đời thì dán 3 hàng, 5 đời thì dán 5 hàng. Người HMông không thờ cúng thổ công trong nhà mà đem muôi cơm, chén rượu ra ngoài cửa chính cúng rồi vẩy cơm tưới rượu lên đó – nghĩa là thổ công, thổ địa được thờ ở bên ngoài nhà.

Trang phục của người phụ nữ HMông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm dân tộc, gồm: váy, áo xẻ ngực có yếm lưng, tấm xiêm che trước bụng, thắt lưng, khăn quấn đầu, xà cạp quấn hai bắp chân. Váy xếp nếp xòe rộng, mang hình ống, khi mặc mới xếp nếp thắt lưng ngoài cạp.  Áo mở chếch ngực về phía bên trái, cài một khuy, cánh tay, cổ áo, gấu áo đều thêu hoa văn…Đồ trang sức gồm: vòng tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân….Trang phục của đàn ông HMông đơn giản, quần dài, đũng chân què cạp lá tọa. Áo ngắn ống rộng cổ đứng mổ bụng khuy cài, quần áo đều màu chàm, hoặc bằng vải láng đen.

Dân tộc HMông có đời sống văn nghệ phong phú, đặc biệt là văn học truyền miệng có rất nhiều thể loại:Truyện thần thoại về anh hùng văn hóa tìm ra loại giống và dạy người HMông cách trồng ngô, lúa, trồng lanh làm vải mặc …cùng truyện cổ tích về các con vật. Người HMông say đắm dân ca dân tộc mình:  Tiếng hát tình yêu, Tiếng hát cưới xin ..thường hát khi lao động nương rẫy, trong lúc se sợi dệt vải hay đi chợ, đi vui xuân ngày tết. Với  nhạc cụ dân tộc (sáo, khèn, kèn lá, đàn môi…). Thanh niên chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để nam thanh nữ tú trao gửi tâm tình

1
    Thổi khèn tâm tình với người yêu

 

Hôn nhân gia đình của người HMông theo tập quán thanh niên nam nữ tự do lựa chọn bạn đời. Việc lựa chọn bạn đời được trước đây biểu hiện ở tục “cướp vợ, kéo vợ”.Người thanh niên cùng bạn bè "cướp" người con gái yêu thích về ở nhà mình vài hôm rồi thông báo cho gia đình nhà gái biết. Ngày nay nam nữ tự do tìm hiểu để nên duyên trăm năm. Vợ chồng người HMông sống tình cảm hòa thuận, rất ít đánh chửi con, rất ít li hôn. Vợ chồng cùng nhau làm ăn,  lên nương, xuống chợ...

Đám cưới của người HMông thường được tổ chức vào ngày lành tháng tốt. Phổ biến vào mùa xuân là mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở mà con người không nằm ngoài vòng quay đó. Người HMông rất kiêng cưới vào những tháng có sấm sét. 

1
Múa khèn một nét văn hóa độc đáo của dân tộc HMong

 

Khi chàng trai thích một cô gái,  chàng trai sẽ về thưa chuyện với bố mẹ. Nhà trai sẽ nhờ  một ông mối (thường là những người có uy tín trong dòng họ) để sang nhà gái làm lễ hỏi. Lễ ăn hỏi thường có: một chai rượu, một con gà trống và chỉ màu… Khi đi làm lễ hỏi, ông mối mang theo một chiếc ô. Đến trước cửa nhà gái, ông mối sẽ hát một bài. Nội dung bài hát  đến hỏi con gái của gia đình về làm dâu con trong nhà, đề nghị gia đình mở cửa. Sau khi nhà gái mở cửa thì ông mối cầm chiếc ô treo lên trước cửa chính của ngôi nhà. Sau khi ông mối thưa chuyện với gia đình cô gái thì dù có đồng ý hay không đồng ý, phía gia đình cô gái cũng phải giữ nhà trai ở lại 2 - 3 ngày mới cho về. Nếu nhà cô gái chưa đồng ý, gia đình nhà trai sẽ phải tiếp tục thuyết phục đến khi nào nhà gái đồng ý mới thôi. Khi nhà gái đồng ý thì họ sẽ lấy một chiếc ghế dài để hướng ra cửa và đặt trên đó 4 chén rượu, một chiếc ô và mời nhà trai uống hết 4 chén rượu.

Nhà trai uống xong thì rót lại 4 chén rượu và mời họ nhà gái. Khi nhà gái uống hết rượu trong chén, ông mối của nhà trai sẽ xoay ngang chiếc ghế lại để khẳng định là nhà gái đã gả con gái. Người con trai  phải vái lạy tổ tiên, bố mẹ và anh em trong gia đình cô gái và như thế chàng trai đã được coi cô gái là vợ của  mình. Hai bên sẽ tiếp tục uống rượu, trong bữa rượu hôm đó họ sẽ cùng nhau chọn ngày lành, tháng tốt để tổ chức lễ cưới và dự tính đồ thách cưới. Sau khi đã thống nhất xong, nhà trai trở về nhưng hôm đó chưa được đưa con dâu về nhà mình ngay.

Ngày đón dâu, chú rể mặc bộ quần áo mới nhất và đẹp nhất. Gia đình chú rể sẽ nhờ ông mối là đại diện (đoàn đón dâu thường từ đi với số lẻ). Bố mẹ chồng không được đi đón con dâu. Trong ngày đón dâu, nhà trai sẽ phải mang đầy đủ lễ vật mà gia đình nhà gái đã thách cưới.

Khi đoàn đón dâu đến nhà gái, ông mối sẽ hát một bài với đại ý:  Đến nhà bố mẹ nàng dâu Thấy nhà đóng kín cửa…. nhờ ông mối nhà gái nói với bố mẹ nàng dâu mở cửa/ Đón đoàn đón  dâu chúng tôi vào nhà. Sau đó, ông mối của nhà gái sẽ hát đối trả lời. Khi vào đến nhà gái ông mối sẽ hát tiếp bài giao lễ vật.. . Trong đó phải có một chiếc ô màu đen - lễ vật quan trọng nhất để che mưa, che nắng cho đôi vợ chồng trẻ. Gia đình cô dâu sẽ nhận và kiểm tra lại xem lễ vật có đủ như thách cưới không. Sau khi nhận xong lễ vật, nhà gái sẽ làm các thủ tục cúng tổ tiên, nhà trai nộp lễ và xin đón dâu. Mỗi thủ tục đều có các bài hát đối và mời 3 chén rượu. Sau khi làm xong các thủ tục xin dâu, hai gia đình sẽ cùng ngồi vào mâm uống  rượu, chúc mừng cô dâu, chú rể và nhà trai sẽ xin đón con dâu về nhà.

1.jpg
     Học sinh HMông tại trường Dân tộc nội trú Tỉnh Điện Biên

 

Theo phong tục của đồng bào HMông, khi đưa cô dâu về nhà chồng thì dù gần hay xa đều phải tổ chức ăn một bữa cơm ở dọc đường. Họ cho rằng bữa cơm đó là để báo với các vị thần linh là nhà trai đã được đón con gái người ta về làm dâu con trong nhà và mời các vị thần linh chứng kiến và phù hộ cho đôi vợ chồng trẻ  làm ăn, phát tài, sinh được con cháu. Khi đoàn đưa, đón dâu về tới nhà, cả đoàn sẽ đứng trước cửa nhà để gia đình nhà trai làm lễ nhập ma cho cô dâu, làm thủ tục báo cáo với tổ tiên, thần linh. Gia đình nhà trai sẽ mời thầy cúng đến làm lễ cho đôi trai gái chính thức thành vợ chồng. Thường thì ông thầy cúng cầm  một con gà trống, tay cầm thanh củi tiến hành làm ma nhập cho cô dâu, sau đó em gái của chồng sẽ dẫn cô dâu vào buồng.

Ngày nay, các chàng trai cô gái HMông đã tìm hiểu, xây dựng gia đình trên cơ sở của tình yêu. Những phong tục trong đám cưới của  người HMông vẫn được lưu giữ, song đã được thực hiện một cách đơn giản hơn, tiết kiệm hơn, việc thách cưới bạc trắng đã giảm hẳn. Từ đó góp phần tích cực vào phong trào  xây dựng đời sống văn hóa mới tại thôn, bản vùng cao.
                                                                    

 

Đỗ Quang Khải
                                                 

.