Kỳ họp thứ 3, HĐND khóa XIV sẽ tập trung xem xét thông qua 10 chương trình, đề án
Điện Biên TV – Kỳ họp thứ 3, HĐND khóa XIV diễn ra từ ngày 10 – 11/6/2016, tại kỳ họp này HĐND tỉnh sẽ tập trung xem xét thông qua 10 chương trình, đề án trong đó có một số nội dung cơ bản của kỳ họp như: Đề án phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025; Chương trình giảm nghèo bền vững tỉnh Điện Biên, giai đoạn 2016 – 2020…
Buổi họp báo thông báo nội dung chương trình, thời gian tổ chức kỳ họp thứ 3, HĐND tỉnh khóa XIV |
Một số nội dung cơ bản của kỳ họp như:
1. Đề án phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025
Trong những năm qua, phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ: Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư hoạt động có hiệu quả; đảm bảo an ninh lương thực và có một phần sản phẩm hàng hóa bán ra ngoài tỉnh. Chăn nuôi phát triển ổn định; diện tích và sản lượng nuôi trồng thủy sản đều tăng; cơ bản đã bảo vệ được diện tích rừng hiện có; thực hiện trồng rừng trên quỹ đất được quy hoạch cho lâm nghiệp bước đầu có hiệu quả; ý thức bảo vệ và phát triển rừng của người dân đã dần được nâng lên. Nhiều công trình thủy lợi tiếp tục được đầu tư đồng bộ về hệ thống kênh mương dẫn phục vụ khai hoang các bãi tưới, hệ thống kênh mương nội đồng được nâng cấp, sửa chữa, chủ động được nước tưới tiêu, tạo điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp. Thành tựu nổi bật và quan trọng nhất, đó là sản xuất lương thực luôn vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Từng bước xây dựng cánh đồng lớn, hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung như lúa đặc sản, cà phê, chè; chăn nuôi gia súc, gia cầm. Bước đầu thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và trồng cây công nghiệp dài ngày, như cao su, cà phê, chè, gạo...
Tuy nhiên, Điện Biên là tỉnh thuần nông, sản xuất tự cung tự cấp còn khá phổ biến, đầu tư thâm canh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất còn chưa đồng đều, quy mô nhỏ, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh thấp, sản phẩm hàng hóa chưa nhiều; dịch bệnh gia súc, gia cầm vẫn xẩy ra ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của người dân. Chất lượng rừng còn thấp, diện tích trồng rừng đạt rất thấp so với kế hoạch giao, chưa tạo ra vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến lâm sản…
Để thực hiện thành công nhiệm vụ sản xuất nông, lâm nghiệp, góp phần phát triển kinh tế của tỉnh trong thời gian tới, nhằm phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục hạn chế, yếu kém trong giai đoạn qua, HĐND sẽ xem xét thông qua Đề án phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 với đề xuất mục tiêu như: Phát triển toàn diện nông lâm nghiệp gắn với thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh. Chú trọng tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng; tập trung đầu tư phát triển các sản phẩm chủ lực có lợi thế (lúa gạo, ngô, cao su, cà phê, chè, cây lấy gỗ, chăn nuôi đại gia súc); áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; gắn sản xuất với chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản; quản lý, kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống cây, con; tăng cường phòng, chống dịch bệnh. Bảo vệ, phát triển rừng, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia trồng rừng sản xuất, cây công nghiệp và dược liệu theo quy hoạch. Tăng cường xây dựng, quảng bá thương hiệu các sản phẩm nông nghiệp của địa phương tập trung vào các sản phẩm chủ lực.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2020:
- Nhịp độ tăng trưởng bình quân giá trị sản phẩm (VA) khu vực nông, lâm nghiệp đạt 3,67%/năm. Cơ cấu ngành nông, lâm nghiệp chiếm 22,53% GRDP của tỉnh.
- Diện tích gieo trồng cây lương thực 79.922 ha; tổng sản lượng lương thực đạt 260 nghìn tấn. Phát triển diện tích rau màu theo hướng sản xuất rau an toàn tại các vùng có điều kiện về sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
- Cây cao su: tập trung chăm sóc diện tích cây cao su hiện có, trồng mới theo kế hoạch của Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam và chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tạo điều kiện để Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (Công ty cổ phần Cao su Điện Biên) xây dựng nhà máy chế biến mủ cao su.
- Cây cà phê: thực hiện thâm canh diện tích cà phê hiện có và còn khả năng phát triển tốt; trồng lại hoặc chuyển đổi những diện tích cà phê phát triển kém sang trồng cây trồng khác. Tập trung vào khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Mở rộng diện tích khi có điều kiện, dự kiến đến năm 2020 toàn tỉnh có 4.900 ha, sản lượng cà phê nhân đạt 10.708 tấn.
- Cây chè: Tập trung đầu tư thâm canh cải tạo diện tích chè, khai thác hiệu quả diện tích chè hiện có; đổi mới công nghệ chế biến, mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng chè đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Dự kiến đến năm 2020 toàn tỉnh có 605 ha, sản lượng chè búp tươi đạt 150 tấn.
- Khuyến khích phát triển các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, tiếp tục nghiên cứu, khảo nghiệm sự phù hợp và hiệu quả kinh tế cây mắc ca.
- Tổng đàn gia súc (trâu, bò, lợn) 676 nghìn con. Tốc độ phát triển bình quân đàn gia súc 4,85%/năm.
- Diện tích nuôi trồng thủy sản 2.075 ha; tổng sản lượng thủy sản đạt 2.998 tấn.
- Tập trung bảo vệ diện tích rừng hiện còn và diện tích rừng tăng thêm hàng năm, chú trọng nâng cao chất lượng khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng rừng mới; tỷ lệ độ che phủ rừng tăng 3,5% so với năm 2015 (tăng bình quân 0,7%/năm).
2. Chương trình giảm nghèo bền vững tỉnh Điện Biên, giai đoạn 2016 – 2020.
Thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 18 tháng 11 năm 2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về Chương trình giảm nghèo nhanh, bền vững giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 267/NQ-HĐND ngày 30 tháng 12 năm 2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tỉnh Điện Biên giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020, trong 5 năm (2011-2015), Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 43/QĐ-UBND ngày 03 tháng 02 năm 2012 phê duyệt Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tỉnh Điện Biên giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020, đồng thời tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo và đạt kết quả quan trọng: Kinh tế tiếp tục tăng trưởng, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, cải thiện điều kiện sản xuất và nâng cao đời sống, tạo việc làm cho người lao động. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực đội ngũ cán bộ các cấp được nâng lên. Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh đã giảm từ 50,01% năm 2010 ước xuống còn 28,01% cuối năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015) riêng 5 huyện nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 70,44% năm 2010 xuống còn 40,25% năm 2015. Kết quả giảm nghèo, đã đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, giữ vững trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên công tác giảm nghèo vẫn còn nhiều hạn chế, như:
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Chương trình giảm nghèo của một số cơ quan thành viên Ban Chỉ đạo thực hiện các Chương trình giảm nghèo tỉnh (giai đoạn 2011-2015), một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa quyết liệt, chưa có nhiều giải pháp đột phá nhằm xóa đói, giảm nghèo bền vững.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến về Chương trình giảm nghèo ở một số cấp ủy, chính quyền chưa sâu rộng. Việc tổ chức thực hiện một số chương trình, dự án, mô hình xóa đói giảm nghèo, nhất là Chương trình 30a còn lúng túng; công tác điều tra, khảo sát xác định nhu cầu nghề cần đào tạo, việc dạy nghề gắn với việc làm, chất lượng đào tạo nghề còn hạn chế; nguồn lực đầu tư cho các chương trình, dự án giảm nghèo chưa đáp ứng so với yêu cầu. Tiến độ triển khai một số Chương trình, dự án còn chậm; một số dự án đầu tư dàn trải, hiệu quả chưa cao.
- Công tác điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hàng năm ở một số nơi thiếu chặt chẽ, chưa khách quan, trung thực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm, nhưng chưa bền vững; xuất khẩu lao động đạt thấp; tỷ lệ người nghiện các chất ma túy cao; hiệu quả cai nghiện ma túy thấp, tỷ lệ tái nghiện cao.
- Chính sách giảm nghèo thiếu tính liên kết, thống nhất, việc ban hành và hướng dẫn một số chính sách còn chậm và bất cập; một số chính sách giảm nghèo có sự chồng chéo về đối tượng, nội dung, địa bàn; các chính sách giảm nghèo đặt mục tiêu cao, chưa gắn với nguồn lực; chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 chưa tính đến chỉ số lạm phát, chuẩn nghèo về thu nhập chưa phản ánh được nghèo do theo mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Các địa phương mới chỉ chú trọng tập trung vào công tác đầu tư cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy lợi...) mà chưa thực sự quan tâm đến công tác hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo, hỗ trợ cho người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số đi làm việc ở các tỉnh, thành phố, các khu công nghiệp, khu chế xuất, doanh nghiệp trong nước và ngoài nước.
Theo kết quả tổng điều tra năm 2015 (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2020), tỉnh Điện Biên còn 57.214 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 48,14% và 9.135 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 7,69% (trong đó: Khu vực thành thị có 904 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 1,59% số hộ nghèo; khu vực nông thôn có 56.310 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 98,42% số hộ nghèo). Xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 70% là 51 xã, chiếm tỷ lệ 39,23%; xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 50% đến dưới 70% là 41 xã, chiếm tỷ lệ 31,54%; xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% đến dưới 50% là 14 xã, chiếm tỷ lệ 10,71%; xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 10% đến dưới 25% là 10 xã, chiếm tỷ lệ 7,69%; xã có tỷ lệ hộ nghèo dưới 10% là 12 xã, chiếm tỷ lệ 9,23%.
3. Đề án tiếp tục bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc tỉnh Điện Biên gắn với phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến năm 2025.
- Thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 20/12/2012 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về Chương trình bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc tỉnh Điện Biên, gắn với phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 304/NQ-HĐND, ngày 13 tháng 5 năm 2013 của HĐND tỉnh về việc thông qua Đề án bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc tỉnh Điện Biên, gắn với phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Đề án), UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 401/QĐ-UBND, ngày 12 tháng 6 năm 2013 về việc phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc tỉnh Điện Biên, gắn với phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, sau 03 năm triển khai, Đề án đã đạt được một số kết quả sau:
+ Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể đã được quan tâm triển khai, nhiều di tích, danh lam thắng cảnh được xếp hạng, công tác trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị bước đầu được quan tâm; cùng với việc tăng cường công tác kiểm kê và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể được triển khai thực hiện có hiệu quả: Nhiều Lễ hội, phong tục tập quán được phục dựng, các chính sách dành cho nghệ nhân, người am hiểu được quan tâm triển khai.
+ Công tác đầu tư về thiết chế văn hóa và nguồn lực cơ sở được chú trọng thực hiện, tạo chuyển biến căn bản, đảm bảo về chất lượng, hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của việc bảo tồn di sản văn hóa; vấn đề nâng cao giá trị bản sắc văn hóa dân tộc và phát huy vai trò của các nhân tố xã hội tham gia bảo tồn, phát triển văn hóa truyền thống từng bước được cải thiện, bước đầu đã phát huy được vai trò làm chủ trong văn hoá của đồng bào các dân tộc, thu hút sự tham gia của nhân dân và du khách.
- Tuy nhiên, việc triển khai Đề án trong giai đoạn qua chỉ đáp ứng được một phần mục tiêu cũng như yêu cầu thực tế; công tác đầu tư, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống các dân tộc còn khó khăn; nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc còn nguy cơ mai một, biến đổi; một số mục tiêu không đủ nguồn lực để thực hiện.
- Mặt khác, hiện nay tỉnh Điện Biên đang gặp nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống, như các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; lợi dụng trình độ dân trí thấp, đời sống còn khó khăn của đồng bào các dân tộc ở một số địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm chia rẽ, gây mất đoàn kết trong cộng đồng, mất ổn định về chính trị, an ninh, quốc phòng.
- Để khắc phục những tồn tại, hạn chế của việc triển khai Đề án giai đoạn qua, đồng thời điều chỉnh, bổ sung mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong thời gian tới cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và chủ trương của Đảng và Nhà nước, qua đó bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc tỉnh Điện Biên gắn với phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến năm 2025 là nhiệm vụ cấp bách, cần thiết.
- Để cụ thể hóa thực hiện Kết luận 01-KL/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của tỉnh, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia các hoạt động bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc, đưa công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số thực sự trở thành nguồn lực góp phần phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội thì việc xây dựng Đề án là hết sức cần thiết.
Mục tiêu đến năm 2020:
- 100% huyện, thị xã, thành phố được kiểm kê di tích, 90% di tích, danh lam thắng cảnh mới phát hiện được lập hồ sơ đề nghị xếp hạng; có 03 di tích trở lên được trùng tu, tôn tạo, phục hồi; bảo quản 100% số hiện vật hiện có và hiện vật sưu tầm bổ sung.
- 100% số các dân tộc được kiểm kê, đánh giá; 50% số các dân tộc có các giá trị di sản văn hóa, tiêu biểu, đại diện được bảo tồn, phát huy;
- Có 15 di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu trở lên được lập hồ sơ đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và 01 di sản văn hóa phi vật thể đề nghị UNESCO đưa vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại
- Có 13 Nghệ nhân trở lên được lập hồ sơ đề nghị Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú, Nghệ nhân Nhân dân lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể; 100% nghệ nhân có thu nhập thấp và hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ kịp thời và đúng quy định.
- 40% trở lên số xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa, tự chủ chương trình hoạt động do chủ thể văn hóa tổ chức thực hiện; có 30% số thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng, có chương trình hoạt động do chủ thể văn hóa tổ chức thực hiện; 100% thôn, bản, tổ dân phố được gắn biển tên.
- Có 95% trở lên cán bộ văn hóa - xã hội cấp xã là người dân tộc thiểu số tại địa bàn, hoặc là người có thời gian sinh sống lâu dài trên địa bàn, có hiểu biết về phong tục tập quán, văn hóa truyền thống của địa phương. 50% số cán bộ văn hóa được đào tạo đúng chuyên ngành và 100% số cán bộ văn hóa được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ hàng năm.
- Mỗi huyện, thị xã, thành phố được hỗ trợ phát triển ít nhất 01 nghề thủ công truyền thống hoặc hỗ trợ bảo tồn và phát triển một số loại hình di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu; hoạt động du lịch tại cộng đồng đi vào nền nếp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
- Toàn tỉnh, hỗ trợ đầu tư bảo tồn từ 03 bản văn hóa truyền thống dân tộc và 05 bản văn hóa - du lịch trở lên.
- Triển khai bảo tồn di sản văn hóa những dân tộc có số dân dưới 10.000 người (Si La và Cống) ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp về di sản văn hóa.
4. Đề án phát triển nguồn nhân lực tỉnh Điện Biên đến năm 2020.
Thực hiện Nghị quyết số 272/NQ-HĐND13 ngày 24/5/2012 của HĐND tỉnh về việc thông qua Đề án phát triển nguồn nhân lực tỉnh Điện Biên đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án, tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Quy mô nguồn nhân lực, cơ cấu lao động, trình độ chuyên môn, thể chất nguồn nhân lực được cải thiện, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Hệ thống giáo dục đào tạo tiếp tục phát triển, quy mô học sinh phát triển khá ổn định ở các cấp học; tỉnh đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2. Duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở, chú trọng đào tạo chuyên nghiệp và đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lao động nâng lên. Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng thể chất được quan tâm.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Điện Biên còn một số tồn tại, hạn chế. Cơ cấu nguồn nhân lực chuyển dịch chậm, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Chất lượng giáo dục ở một số vùng khó khăn còn hạn chế. Quy mô và chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh còn bất cập, cơ sở, vật chất, thiết bị còn thiếu. Chất lượng lao động qua đào tạo nghề còn hạn chế, đào tạo chưa gắn với nhu cầu sử dụng.
Trên cơ sở xem xét Báo cáo của Ban Cán sự Đảng Ủy ban nhân dân tỉnh, ngày 29 tháng 3 năm 2016, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã họp, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 23 tháng 3 năm 2012 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Điện Biên đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 và ban hành Kết luận số 02-KL/TU ngày 20 tháng 5 năm 2016 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 23 tháng 3 năm 2012 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Theo đó đã ban hành các phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện đến năm 2020, đồng thời giao Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh lãnh đạo Hội đồng nhân dân tỉnh, Ban Cán sự Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh cụ thể hóa nội dung Kết luận bằng nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án; xây dựng cơ chế, chính sách để triển khai, thực hiện.
Vì vậy, việc Ủy ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân tỉnh xem xét ban hành Nghị quyết thông qua Đề án phát triển nguồn nhân lực tỉnh Điện Biên đến năm 2020 để cụ thể hóa việc triển khai thực hiện Kết luận số 02-KL/TU ngày 20 tháng 5 năm 2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy là cần thiết. Nghị quyết này sẽ thay thế các phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện trong giai đoạn 2016-2020 tại Nghị quyết số 272/NQ-HDDND ngày 24 tháng 5 năm 2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thông qua Đề án phát triển nguồn nhân lực tỉnh Điện Biên đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.
Mục tiêu đến năm 2020:
- Phát triển nguồn nhân lực theo hướng đáp ứng yêu cầu về số lượng, đảm bảo chất lượng và cơ cấu hợp lý (lao động khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 58,7%; công nghiệp - xây dựng 15,6%; dịch vụ 25,7%).
- Huy động trẻ 0-2 tuổi ra lớp đạt trên 50%; trẻ 3-5 tuổi ra lớp đạt 98%, trẻ 5 tuổi ra lớp đạt trên 99,6%; dân số 6-10 tuổi học tiểu học đạt 99,5%; dân số 11-14 tuổi học trung học cơ sở đạt 95%; huy động dân số 15-18 tuổi học trung học phổ thông và tương đương đạt 70% trở lên.
- Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt trên 99%; tốt nghiệp trung học cơ sở đạt trên 99,5%; tốt nghiệp trung học phổ thông đạt trên 97%. Trên 60% số trường mầm non và phổ thông đạt chuẩn quốc gia.
- Đến năm 2020, toàn tỉnh đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2; đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2; có 60% đơn vị hành chính cấp xã và 03 đơn vị hành chính cấp huyện đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở mức độ 3. Duy trì và nâng cao các chỉ số về chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2. Thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 3 tuổi, 4 tuổi theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Mỗi năm đào tạo nghề cho khoảng 7.800-8.200 lao động; tạo việc làm mới cho trên 8.500 lao động/năm. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2020 đạt 58,6%.
- Đối với cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện: Phấn đấu đến năm 2020, 100% cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn quy định trước khi bổ nhiệm ngạch, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý. Hằng năm ít nhất 80% cán bộ, công chức được cập nhật kiến thức pháp luật, được bồi dưỡng về đạo đức công vụ; 70% được bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực thi công vụ.
- Đối với cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã: Phấn đấu đến năm 2020, 100% cán bộ, công chức cấp xã có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên; có 90% công chức cấp xã có trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí đảm nhiệm. Hằng năm, ít nhất 60% cán bộ, công chức cấp xã được bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp, đạo đức công vụ. Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được bồi dưỡng cập nhật và nâng cao kỹ năng, phương pháp hoạt động ít nhất 01 lần trong thời gian 02 năm.
- Đối với viên chức: Đến năm 2020, có 60% viên chức trở lên được bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp; có 70% viên chức trở lên giữ chức vụ quản lý được bồi dưỡng năng lực, kỹ năng quản lý trước khi bổ nhiệm. Hằng năm, ít nhất 60% viên chức được bồi dưỡng về đạo đức nghề nghiệp; cập nhật nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp chuyên ngành.
- Nâng cao thể chất nguồn nhân lực: Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em <5 tuổi (cân nặng/tuổi) còn 10% vào năm 2020; tuổi thọ trung bình người dân đạt 75 tuổi.
Tử Long