Hiệp định Paris 1973 - Ý nghĩa và giá trị sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam
Điện Biên TV - Trong lịch sử đấu tranh của nhân dân ta, chưa bao giờ có cuộc đàm phán nào kéo dài như Hội nghị Paris “Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”, (từ 15/3/1968 đến 27/1/1973, cụ thể kéo dài 4 năm, 8 tháng, 14 ngày). Với 202 phiên họp công khai và 24 đợt gặp riêng, cuộc đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Hồ Chủ Tịch trên bàn thương lượng đã giành được thắng lợi quan trọng, to lớn về nhiều mặt.
Khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 để lại cho kẻ địch những thất bại thảm hại, nặng nề, đế quốc Mỹ đã buộc phải ngồi vào bàn đàm phán. Kể từ tháng 5/1968, cuộc đấu tranh của Việt Nam bắt đầu tiến hành song song hai mặt trận: quân sự và ngoại giao. Triển khai chủ trương đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã họp với Bộ Chính trị, cho tư tưởng chỉ đạo: Có thể tiếp xúc, nhưng trước hết cần ép Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc rồi mới bàn các vấn đề khác. Bác đề nghị Trung ương cử đồng chí Lê Đức Thọ làm Cố vấn và ký sắc lệnh cử đồng chí Xuân Thủy làm Bộ trưởng Chính phủ để làm Trưởng đoàn. Đồng thời, Người cũng căn dặn: Phải cử cố vấn quân sự tham gia Đoàn để giúp Đoàn theo dõi tình hình chiến sự nhằm phối hợp đấu tranh trên bàn hội nghị.
Ngày 13/5/1968, Hội nghị hai bên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và Mỹ họp phiên đầu tiên tại Trung tâm Hội nghị quốc tế trên đại lộ Klébe, Paris, chính thức mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm” của chúng ta. Nhiệm vụ của đối ngoại giai đoạn này là dùng đàm phán để tiến công cô lập địch; vạch trần âm mưu của địch kéo dài chiến tranh và tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh do Mỹ phát động; tranh thủ dư luận phục vụ cho cuộc đấu tranh quân sự, chính trị trên chiến trường; yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện miền Bắc Việt Nam.
![]() |
Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris về Việt Nam (27/1/1973). (Nguồn: Internet) |
Khi một bên đang thắng thế trên chiến trường thì đàm phán thường bế tắc và điều đó hoàn toàn đúng với Hội nghị Paris. Suốt từ năm 1968 đến đầu 1972, hàng loạt cuộc gặp gỡ đã diễn ra, nhưng hai bên, giữa Bộ trưởng Xuân Thủy cùng Cố vấn Lê Đức Thọ đại diện VNDCCH và ông William Averell Harriman (sau đó là Henry Kissinger) đại diện Chính phủ Mỹ, đều bất đồng. Thời gian này, Chính phủ Nixon bắt đầu thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”. Về phía ta, Trung ương chỉ đạo tiến hành đấu tranh mạnh mẽ, đồng loạt trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao. Ngày 30/3/1972, bộ đội ta tổ chức tấn công quy mô vào Quảng Trị, Thừa Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Một tuần sau, ngày 6/4/1972, Mỹ phản hồi bằng cuộc không kích ác liệt (chiến dịch Linebacker I). Mùa hè đỏ lửa 1972 bắt đầu. Ngày 2/5/1972, trong khi tiếng súng chưa ngưng tại Việt Nam, ở Paris, cuộc họp giữa Kissinger và Bộ trưởng Xuân Thủy cùng Cố vấn Lê Đức Thọ được tái lập.
Sau những cuộc đấu trí diễn ra quyết liệt giữa các bên đàm phán, đặc biệt là giữa Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Trợ lý Tổng thống Mỹ Kissinger, ngày 8/10/1972, phái đoàn Việt Nam đưa cho Mỹ bản dự thảo Hiệp định với những điều khoản yêu cầu Mỹ rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam. Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí, nhưng đến ngày 22/10/1972 phía Mỹ lật lọng, viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo. Ngày 12/12/1972 khi quan điểm tiếp tục bất đồng và VNDCCH cương quyết không ngồi vào bàn thương lượng, cuộc đàm phán phải tạm dừng. Ngay sau đó, Tổng thống Nixon gửi tối hậu thư, yêu cầu Hà Nội trở lại đàm phán trong vòng 72 giờ để ký theo phương án Hoa Kỳ đề nghị. Hà Nội từ chối. Ngày 15/12/1972, Cố vấn Lê Đức Thọ lên đường về nước.
Ngày 17/12/1972, Tổng thống Nixon chính thức ra lệnh tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược vào miền Bắc Việt Nam với tên gọi Chiến dịch “Linebacker II)” chủ yếu bằng B.52, nhằm gây sức ép buộc ta phải chấp nhận ký Hiệp định Paris theo các điều khoản sửa đổi của chúng; đánh phá, hủy diệt tiềm lực kinh tế - quốc phòng của miền Bắc, hạn chế sự chi viện cho cách mạng miền Nam; làm tê liệt ý chí chiến đấu, quyết chiến, quyết thắng của dân tộc ta; đe dọa phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới. Đế quốc Mỹ đã phải “tung con chủ bài cuối cùng” - như cách nói của Henry Kissinger “nhằm cố cứu vớt thể diện, xoay chuyển tình thế”. Ngày 18/12/1972, ngay khi Cố vấn Lê Đức Thọ về đến Việt Nam, cũng là lúc những trận bom B52 bắt đầu dội xuống Hà Nội, Hải Phòng và các mục tiêu khác.
Đúng như lời của Nixon, trong 12 ngày đêm, đế quốc Mỹ đã huy động số lượng lớn máy bay, tàu chiến và các loại vũ khí vào chiến dịch. Đây là cuộc huy động lực lượng tập kích đường không lớn nhất của đế quốc Mỹ kể từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai đến năm 1972. Những cuộc ném bom B52 sau đó đã diễn ra ác liệt và tàn khốc nhất chưa từng có. Cuộc tập kích tàn bạo chủ yếu bằng B52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội đã vấp phải làn sóng đấu tranh, lên án phản đối kịch liệt của dư luận ở Việt Nam và cả trên thế giới. Ngay trên đất Mỹ, các tờ báo lớn ở đây đã phê phán cực kỳ mạnh mẽ: “Hàng triệu người Mỹ phải cúi đầu vì xấu hổ và nghi ngờ sức khỏe tâm thần của Tổng thống họ”. Đây là một hành động “khủng bố vô nhân đạo, làm hoen ố uy danh nước Mỹ”. Các cuộc ném bom này là “ném bom khủng bố nhân danh hòa bình”… Âm mưu thâm độc và những thủ đoạn đê hèn, tàn bạo của đế quốc Mỹ đã hoàn toàn thất bại thảm hại. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm được ví là trận “Điện Biên Phủ trên không” giữa không quân Mỹ và nhân dân miền Bắc Việt Nam kết thúc bằng việc 81 máy bay các loại gồm 34 “pháo đài bay B52”, 5 chiếc F-111 và 42 máy bay chiến đấu khác của Mỹ đã bị nổ tung ngay trên bầu trời Hà Nội. Thất bại của Mỹ trong trận tập kích dẫn đến thất bại của Nixon về chính trị bội phần cay đắng hơn. Thắng lợi lịch sử của trận “Điện Biên Phủ trên không” là đòn quyết định nhất buộc Nixon phải tuyên bố ngừng ném bom từ Bắc vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị cho phía Mỹ gặp đoàn đại biểu Việt Nam tại Paris để ký hiệp định chấm dứt chiến tranh.
Ngày 23/1/1973, Cố vấn Lê Đức Thọ cùng Trợ lý Tổng thống Mỹ Kissinger đã ký tắt văn bản Hiệp định. Ngày 27/1/1973 diễn ra lễ ký chính thức Hiệp định tại Paris. Với 9 chương, 23 điều và 4 Nghị định thư kèm theo, nội dung chủ yếu của Hiệp định Paris khẳng định: Mỹ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như được công nhận bởi Hiệp định Geneve; các bên thực hiện ngừng bắn, chấm dứt chiến sự không thời hạn; Mỹ chấm dứt mọi hoạt động chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;... thừa nhận sự hiện diện hợp pháp của Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Nam, sự tồn tại và địa vị hợp pháp của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam… Mỹ rút quân, nhưng Việt Nam vẫn giữ nguyên lực lượng chính trị và vũ trang ở miền Nam Việt Nam. Hiệp định Paris 27/1/1973 là cơ sở pháp lý không cho phép Mỹ tiếp tục dính líu và can thiệp trở lại, ngụy mất chỗ dựa và suy yếu, ta giữ nguyên lực lượng và lớn mạnh lên, xuất hiện cục diện mới, so sánh lực lượng mới ở miền Nam. Đây là điều kiện cơ bản rất thuận lợi cho ta trên con đường giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Hiệp định Paris được ký kết, tạo đà quân và dân ta đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chiến lược “Đánh cho Mỹ cút”, tiến lên “Đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây thực sự là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta nói chung và của lịch sử ngành ngoại giao nói riêng.
Thắng lợi vĩ đại của Hiệp định Paris là thắng lợi tổng hợp trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt, đầy trí tuệ, rất bản lĩnh của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là thắng lợi quyết định tạo điều kiện thuận lợi cho hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc vào ngày 30/4/1975.
Hơn 40 năm đã trôi qua, song ý nghĩa lịch sử của sự kiện ký kết Hiệp định Paris - đỉnh cao của mặt trận ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh vẫn còn vẹn nguyên giá trị./.
Nguyễn Vân Chương