Mỗi người Việt đang "gánh" hơn 35 triệu đồng nợ công
Năm 2018, bình quân mỗi người Việt gánh hơn 35 triệu đồng nợ công, tăng gần 4 triệu đồng/người so với năm 2017.
Theo báo cáo Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), năm 2018 nợ công dự kiến lên con số 3,5 triệu tỷ đồng tương ứng 63,92% GDP.
Trong đó, nợ Chính phủ hơn 2,9 triệu tỷ đồng, nợ Chính phủ bảo lãnh 559.000 tỷ đồng và nợ chính quyền địa phương 73.000 tỷ đồng. Mức bội chi ngân sách năm 2018 là 3,71% GDP. Như vậy, từ chỗ mỗi người dân chỉ "gánh" 31 triệu đồng nợ công vào năm 2017, thì đến 2018 dự kiến con số này sẽ tăng thêm 4 triệu đồng, lên 35 triệu đồng.
Tuy nhiên, con số đó có thể chưa dừng lại. Theo tính toán của Bộ KH&ĐT, nợ công trong xu hướng tăng dần đều, mỗi năm khoảng 360.000-380.000 tỷ đồng. Cụ thể, năm 2019 dự kiến tăng lên mức hơn 3,9 triệu tỷ đồng và gần 4,3 triệu tỷ đồng vào năm 2020.
Nợ công tăng cao, bình quân mỗi người Việt đang “gánh” hơn 35 triệu đồng nợ công (Ảnh minh họa: KT) |
Cần xem xét kỹ nguồn vốn ODA
Theo thống kê, tổng vốn nước ngoài Việt Nam ký kết vay giai đoạn 2016 – 2017 đạt 9.198 triệu USD, trong đó vốn vay ODA 6.781 triệu USD, vay ưu đãi 2.200 triệu USD, viện trợ không hoàn lại 216,8 triệu USD. Trong đó, vốn vay ODA có lãi suất thấp, thời hạn vay dài thường từ 25-40 năm và thời gian ân hạn hợp lý (từ 5-10 năm). Với các ưu điểm này, vốn ODA giúp Việt Nam tiếp cận với nguồn kỹ thuật tài chính quan trọng, giúp chuyển giao tri thức, đổi mới, sáng tạo và là đòn bẩy, chất xúc tác huy động nguồn vốn khác, đặc biệt nguồn vốn trong nước.
“Tuy nhiên, vốn vay ODA bắt đầu bộc lộ hạn chế như lãi suất xu hướng tăng dần. Nếu Việt Nam không cân nhắc kỹ có thể rơi vào bẫy “ODA và vay ưu đãi” khi lãi suất vay và phí thu xếp vốn cao hơn so với mức lãi suất vay thương mại trên thị trường vốn trong nước”, Bộ KH&ĐT cảnh báo.
Bên cạnh đó, Bộ KH&ĐT cũng dẫn chứng một số khoản vay ưu đãi có kèm theo điều kiện ràng buộc về kỹ thuật, công nghệ, lựa chọn nhà thầu khiến chi phí vay thực tế có thể cao hơn nhiều so với trường hợp đấu thầu cạnh tranh. Ngoài ra, rủi ro do tác động bất lợi của biến động tỷ giá, đặc biệt việc lên giá đồng tiền ODA và ưu đãi so với đồng Việt Nam có thể tăng nghĩa vụ trả nợ và tăng nợ công. Năng lực hấp thụ viện trợ nước ngoài của ngành, địa phương và dự án cụ thể còn hạn chế. Các dự án vốn vay nước ngoài đều phải gia hạn, kéo dài thời gian thực hiện, chậm phát huy hiệu quả.
Thời gian qua, nhiều dự án phải điều chỉnh tăng vốn đầu tư gấp nhiều lần so với phê duyệt ban đầu, như: tuyến đường sắt đô thị đoạn Bến Thành – Suối Tiên (TP HCM) tăng từ 17.387 tỷ đồng lên 47.325 tỷ đồng; tuyến đường sắt đô thị đoạn Nhổn – ga Hà Nội vay Pháp, ADB tăng từ 783 triệu EUR lên 1.176 triệu EUR… Nguyên nhân chính của thực trạng này do kéo dài thời gian bàn giao mặt bằng, gây phát sinh chi phí. Đơn vị thi cộng chậm khiến trượt giá nguyên vật liệu, giá nhân công phải điều chỉnh. Đặc biệt do năng lực đơn vị tư vấn kém. Các giải pháp thiết kế, tính toán chưa chính xác chi phí đầu tư hạng mục khiến tổng mức đầu tư tăng.
Đáng chú ý, năm 2016 -2017 vốn vay Trung Quốc đứng hàng thứ 5 trong số các nhà tài trợ với 281 triệu USD. Vốn vay ưu đãi của Trung Quốc cho VN tương tự các khoản vay tín dụng xuất khẩu, là các khoản vay có điều kiện (chỉ định thầu cho các doanh nghiệp Trung Quốc) và có điều kiện vay kém ưu đãi hơn so với ODA của các nhà tài trợ khác tại VN.
“Vay Trung Quốc đi kèm điều kiện lãi suất khoảng 3%/năm, phí cam kết 0,5%, phí quản lý 0,5%, thời hạn vay 15 năm, thời gian ân hạn 5 năm”, Bộ KH-ĐT cho hay.
Bộ KH-ĐT lưu ý: "Tín dụng ưu đãi của Trung Quốc chỉ phù hợp cho các dự án có nguồn thu trực tiếp, có khả năng trả nợ. Một số dự án sử dụng vốn vay, nhà thầu, thiết bị Trung Quốc thường xuyên chậm tiến độ, không đảm bảo chất lượng, tăng tổng mức đầu tư... ảnh hưởng hiệu quả đầu tư".
Do đó, Bộ này đề xuất Chính phủ trong định hướng đối với việc vay nguồn tín dụng ưu đãi của Trung Quốc thời gian tới "cần được xem xét và cân nhắc".
Chuẩn bị chiến lược rút lui vốn ODA
Theo Bộ KH&ĐT, một trong những vướng mắc nổi cộm giai đoạn 2016-2017 đối với thực hiện các dự án có sử dụng vốn vay ODA là thiếu vốn đối ứng. Thiếu vốn đối ứng làm ách tắc quá trình thực hiện dự án, đặc biệt khâu đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư và công trình xây dựng thuộc phần đóng góp của Việt Nam. Tình trạng này xảy ra chủ yếu ở Bộ Giao thông vận tải, một số địa phương như Hà Nội, Hải Phòng.
“Vẫn còn tình trạng một số địa phương không ưu tiên bố trí vốn đối ứng cho dự án ODA, vốn vay ưu đãi trong tổng hạn mức vốn trong nước được giao theo quy định mà có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào hỗ trợ từ ngân sách trung ương”, Bộ KH&ĐT cho biết.
Bộ KH&ĐT cũng chỉ ra thách thức của Việt Nam trong huy động nguồn vốn cho phát triển kinh tế và giải quyết vấn đề xã hội, môi trường phát sinh của giai đoạn 2021-2025. Giai đoạn này, cơ cấu vốn đầu tư có sự chuyển dịch, giảm dần khu vực nhà nước khi quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mạnh mẽ với việc thoái vốn khỏi nhiều DN sản xuất kinh doanh.
Do đó, Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng kiến nghị Chính Phủ có quan điểm chỉ đạo trong thu hút và sử dụng vốn vay nước ngoài cho phát triển giai đoạn 2021-2025. Theo đó, chỉ cung ứng vốn ODA cho chương trình, dự án cần thiết kế với quy mô đủ lớn để phát huy hiệu quả tối đa, tác động lan toả mạnh, đáp ứng như cầu phát triển và tích cực đàm phán để tranh thủ tối đa các điều kiện ưu đãi. Các dự án cần kết hợp hài hoà giữa huy động vay trong nước và vay nước ngoài. Trong đó, vay nước ngoài chỉ nên tài trợ cho nhu cầu đầu tư cần đến ngoại tệ như nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị. Quan điểm sử dụng nguồn vốn, coi vốn trong nước và nước ngoài bổ sung, hỗ trợ, không phải cạnh tranh lẫn nhau.
Trong định hướng mới về thu hút và sử dụng vốn vay nước ngoài của Chính Phủ, Bộ KH&ĐT đề xuất, vốn vay ODA và vay ưu đãi chỉ nên chiếm 30-50% tổng mức đầu tư dự án, đóng vai trò vốn mồi, chất xúc tác cho nguồn vốn khác. Ưu tiên sử dụng dự án trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng gắn với phát triển bền vững, nhất là dự án có khả năng tạo nguồn thu ngoại tệ trong trung và dài hạn như giải quyết nút thắt cơ bản về hạ tầng, nông nghiệp thông minh, kích thích hoạt động xuất khẩu… Hạn chế sử dụng vốn vay nước ngoài để tài trợ cho nhu cầu mua sắm nội địa vì làm tăng nợ công nhưng không cải thiện năng lực trả nợ quốc gia.
“Việt Nam cần chuẩn bị cho chiến lược rút lui. Vốn ODA chỉ là kênh huy động ngoại tệ tạm thời. Lợi ích lớn nhất của vốn vay nước ngoài là có nguồn ngoại tệ để tiếp cận công nghệ, tài sản đầu tư và kiến thức chuyên môn tiên tiến. Về lâu dài, chúng ta cần có chiến lược để tiếp cận các yếu tố đó mà không cần ODA. Tức là Việt Nam cần tập trung xây dựng thị trường vốn trong nước, tiếp cận thị trường vốn nước ngoài và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nước để tiệm cận dần đến trình độ quốc tế”, Bộ KH&ĐT kiến nghị./.
Theo VOV